Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật ca nhạc tài tử và sân khấu cải lương
Đăng lúc: 2019-05-15 15:12:57
|
Bởi: admin
|
Lượt xem: 0
|
Chuyên mục: Tinh hoa nghề Việt
TTPT.VN - Cho đến nay, mặc dù trải qua nhiều bước phát triển thăng trầm khác nhau, nhưng ca nhạc tài tử và sân khấu cải lương vẫn được khẳng định là một bộ phận quan trọng trong vốn di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc.
Giá trị văn hóa của các loại hình này nhìn một cách bao quát đó là: “Bản chất của âm nhạc cải lương đã được tìm thấy từ trong các điệu thức dân tộc nằm rải rác từ Bắc chí Nam. Tính chất cơ bản của điệu thức là sự thể hiện sức sống của một dân tộc gồm nhiều sắc tộc cùng sống chung trong một lãnh thổ với những hoàn cảnh địa lý và màu sắc, ngôn ngữ khác biệt” (Đắc Nhẫn, tr. 79). Đây chính là cơ sở quan trọng để lý giải tại sao ca nhạc tài tử và cải lương có thể từng được đông đảo nhân dân trên nhiều vùng miền trong cả nước ưa thích.
1. Đặt vấn đề
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trên vùng đất Nam Bộ, ca nhạc tài tử và sau đó là sân khấu cải lương ra đời như là một bước “đột phá” về nghệ thuật trong tiến trình lịch sử phát triển về phương Nam của cộng đồng người Việt và văn hóa Việt Nam nói chung. Đặc điểm, tính chất và thành tựu lớn nhất của sự sáng tạo ấy có thể khái quát như sau: “Kịch hát cải lương có một quá trình hình thành từ ca nhạc tài tử, ca ra bộ đến sân khấu cải lương, quá trình ấy là sự chuyển hóa, kết hợp giữa âm nhạc, văn học, vũ đạo và trò diễn để phát triển thành một hình thức ca nhạc mới của sân khấu cải lương, mang tính hàn lâm dân gian, cộng đồng và bản địa” (Tuấn Giang, 1991, tr. 64).
Cho đến nay, mặc dù trải qua nhiều bước phát triển thăng trầm khác nhau, nhưng ca nhạc tài tử và sân khấu cải lương vẫn được khẳng định là một bộ phận quan trọng trong vốn di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc. Giá trị văn hóa của các loại hình này nhìn một cách bao quát đó là: “Bản chất của âm nhạc cải lương đã được tìm thấy từ trong các điệu thức dân tộc nằm rải rác từ Bắc chí Nam. Tính chất cơ bản của điệu thức là sự thể hiện sức sống của một dân tộc gồm nhiều sắc tộc cùng sống chung trong một lãnh thổ với những hoàn cảnh địa lý và màu sắc, ngôn ngữ khác biệt” (Đắc Nhẫn, tr. 79). Đây chính là cơ sở quan trọng để lý giải tại sao ca nhạc tài tử và cải lương có thể từng được đông đảo nhân dân trên nhiều vùng miền trong cả nước ưa thích.
Ngoài ra, trong thực tế diễn ra của bản thân các loại hình này với tư cách là một hình thức hoạt động văn hóa nghệ thuật, người ta còn nhấn mạnh đến khả năng phát huy sự sáng tạo hết sức linh hoạt của con người khi tham gia vào các hoạt động ấy: “Nếu bài bản âm nhạc cải lương là mẫu số chung thì tiếng đàn, giọng hát sẽ là những tử số riêng. Chính những tử số riêng ấy mới làm nên giá trị nghệ thuật cao hay thấp của mỗi phân số tài năng” (Ngô Hồng Khanh, tr. 60). Phải chăng đây là cơ sở để người ta có thể nói rằng sân khấu cải lương cũng như ca nhạc tài tử có thể trở thành là một trong những “mảnh đất thiêng” cho sự sáng tạo văn hóa nghệ thuật của con người...
2. Thực trạng tình hình hoạt động của ca nhạc tài tử và sân khấu cải lương (chủ yếu ở TP HCM và Nam Bộ)
Với những giá trị vốn có của nó như đã nêu, ca nhạc tài tử đang được tiến hành nghiên cứu, lập hồ sơ khoa học để đề nghị UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Riêng sân khấu cải lương mặc dù đã và đang gặp nhiều khó khăn, nhưng vẫn được sự quan tâm nhất định của nhiều lực lượng xã hội. Đã có những hình thức mạnh dạn đầu tư để dàn dựng thử nghiệm những vở cải lương “quy mô lớn” (Kiều Nguyệt Nga, Chiếc áo thiên nga...). Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố đã ban hành quyết định số 3478/QĐ-UB ngày 23/8/2002 về việc “Thành lập Ban chỉ đạo thực hiện nâng cấp nghệ thuật cải lương Thành phố Hồ Chí Minh”. Thành phố cũng đã triển khai kế hoạch xúc tiến xây dựng lại rạp Hưng Đạo thành nhà hát cải lương có quy mô “hiện đại”... Ngoài ra, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, Hội Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh... đã triển khai một số hoạt động nghiên cứu và tiến hành tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm về ca nhạc tài tử và cải lương. Giữa năm 2010, Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành cuộc điều tra xã hội học phục vụ cho đề tài mục tiêu quốc gia: “Điều tra, phát huy sân khấu truyền thống tại Thành phố Hồ Chí Minh: Sân khấu cải lương”. Với tổng số mẫu khảo sát 1.000 phiếu trên 3 nhóm đối tượng: Công chúng thường xem cải lương nhưng không đến sân khấu, công chúng thường xem cải lương tại các sân khấu, công chúng là sinh viên đang theo học tại các trường cao đẳng, đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả cho thấy, có 284 lần gặp câu trả lời chọn đến sân khấu cải lương (tỷ lệ 71,0 %), kế đến chọn hình thức xem băng đĩa có 257 lần (tỷ lệ 64,3 %), có 194 lần trả lời chọn xem cải lương trên kênh truyền hình (48,5 %) và nghe radio không đáng kể chỉ có 8 lần chọn (tỷ lệ 2,0 %). Qua kết quả khảo sát, chúng ta thấy lượng khán giả đi xem cải lương mỗi tháng 1 - 2 lần chiếm tỷ lệ 35,5 %, gần như xem hàng tuần tỉ lệ 7,8 % và không bỏ sót buổi nào tỷ lệ 2,7 %. Điều này cho thấy rằng tần suất đi xem cải lương của khán giả ở các sân khấu trong một tháng khoảng 40% và có đến hơn 50% khán giả không bao giờ đến sân khấu xem cải lương.
Nhìn chung, kết quả nghiên cứu 1.000 đối tượng cho thấy khán giả hiện nay đi xem cải lương vì nhiều lý do khác nhau tùy theo từng đối tượng nhưng chúng ta thấy rằng có khá nhiều khán giả xem cải lương để giải trí chiếm hơn 50 %, và họ biết thông tin về lịch diễn, vở diễn thông qua bạn bè hoặc người thân, những người tặng vé mời. Kế đến, chỉ có 30 % khán giả đi xem cải lương vì quan tâm đến nội dung vở diễn, số còn lại xem vì có diễn viên nổi tiếng, yêu thích và lý do xem vì hình thức vở diễn, xem cho biết không đáng kể. Về thể loại và nội dung các vở cải lương, có 414 ý kiến cho rằng họ thích những tuồng thuộc thể loại tâm lý xã hội, 344 ý kiến thích tuồng cổ, 201 ý kiến thích thể loại hương xa, và 90 ý kiến thích tuồng lịch sử... Nhìn chung, với những ý kiến thu thập được trong quá trình khảo sát cho thấy thị hiếu của khán giả hiện nay là những vở cải lương thuộc thể loại tâm lý xã hội lẫn tuồng cổ với những đề tài về xã hội hiện đại (có tính hài, nói lên các vấn nạn xã hội, giáo dục đạo làm người...) và những nội dung về lịch sử dân tộc... Về chất lượng các vở cải lương, nhiều ý kiến cho rằng tuồng cải lương hiện nay nhiều hơn trước nhưng chất lượng không cao như khán giả kỳ vọng, một số tuồng dàn dựng có vẻ quá hấp tấp, vội vàng và chất lượng nghệ thuật của một số tác phẩm giống như kiểu “mì ăn liền”, không sâu sắc, không ấn tượng và không đi sâu vào lòng người... Về chất lượng diễn viên, nhiều khán giả bày tỏ khi đến sân khấu cải lương, họ mong muốn tìm lại hình ảnh những diễn viên mà họ từng yêu thích ở thập niên 1960, 1970. Hiện nay có rất nhiều diễn viên cải lương trẻ, có chất giọng tốt nhưng hình như họ chưa tạo cho mình một phong cách, một làn hơi riêng như những người đi trước. Chính vì thế, những khán giả ở tuổi trung niên, người già, yêu thích cải lương càng khao khát nghe được những giọng ca đã từng làm say đắm lòng họ...
Cũng qua phân tích về thực trạng sân khấu cải lương hiện nay trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh kết hợp phiếu điều tra cùng nhiều nguồn thông tin khác nhau, đúng là đã có một số hiện tượng tiêu cực do “khuynh hướng thương mại hóa sân khấu, khuynh hướng chạy theo hình thức, coi nhẹ nội dung vở diễn” mà hệ quả trực tiếp của nó như một số nhà nghiên cứu đã nhận xét: “... qua nhiều năm tồn tại, ngành cải lương Nam Bộ hiện nay đã hình thành một kiểu cải lương ca sĩ, chứ không phải cải lương diễn viên mà đối tượng phục vụ là thính giả thích xem mặt ca sĩ, chứ không phải khán giả sân khấu” (Mịch Quang, tr. 37). Và, nặng nề hơn nữa, như có người đã nhấn mạnh rằng: “sân khấu cải lương và âm nhạc cải lương bị sa lầy trong sự chắp vá, lai căng suốt mấy chục năm, cho tới tận ngày nay. Càng thả mình chìm sâu trong vũng lầy đó, sân khấu cải lương và âm nhạc cải lương đã trở thành “thủ phạm” gieo mầm, nuôi dưỡng và phát triển một thị hiếu và tập quán thưởng thức nghệ thuật cũng chắp vá như bản thân nó trong công chúng. Nó làm sai lạc, méo mó cả bản chất của sân khấu cải lương...” (Thụy Loan, tr. 25) (?) Mặc dù vậy, qua khảo sát thực tế cho thấy, nghệ thuật cải lương vẫn còn nhiều khán giả yêu thích nó và đến với nó bằng những hình thức và trình độ cảm thụ khác nhau. Dù rằng có sự phân khúc thị trường đối với nhu cầu giải trí của người dân tại các quận huyện trên địa bàn Thành phố và đặc biệt là những ảnh hưởng từ xã hội tác động đến nhu cầu giải trí của công chúng hiện nay nhưng nhìn chung, chất lượng nghệ thuật của những vở diễn vẫn là một trong những yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến việc lựa chọn hình thức giải trí của công chúng tại đây.
3. Một số định hướng, giải pháp chiến lược để bảo tồn, phát huy giá trị nghệ thuật ca nhạc tài tử và sân khấu cải lương
Như đã nói, ca nhạc tài tử và sân khấu cải lương vẫn được sự quan tâm của xã hội và vẫn còn cơ hội để khẳng định giá trị của nó. Nhưng, thực tế hiện nay quả thực đang đặt ra nhiều thử thách gay go đối với các loại hình này, đặc biệt là với sân khấu cải lương. Cuộc sống mới của con người đương đại với những mối quan hệ xã hội mới, nhu cầu văn hóa tinh thần và thị hiếu thẩm mỹ mới, chưa kể trước “sự cạnh tranh” quyết liệt bởi những hình thức, phương tiện giải trí phong phú hiện nay... tất cả trở thành những “yêu cầu cao” theo hướng cải lương phải có những tuồng tích mới, cách dàn dựng, trình độ diễn xuất... tạo ra sự rung động tâm hồn thực sự, “đánh trúng” được những vấn đề mâu thuẫn gay gắt hiện tại, đáp ứng đúng nhu cầu, tâm lý con người thời đại... Soạn giả Lê Duy Hạnh, Chủ tịch Hội Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh từng khẳng định: “... xã hội loài người phát triển, tâm lý tình cảm và tư duy của con người cũng có những thay đổi và đã hình thành những quy luật mới... Vì vậy cải lương không thể dậm chân tại chỗ, bằng lòng với bài bản có sẵn. Cần có sự thanh lọc lại và phát triển nó...” (Lê Duy Hạnh, 1991, tr. 17). Thật ra, đây là thế mạnh vốn có của cải lương từng được khẳng định qua thực tế hoạt động: “Đúng như cái tên được đặt cho nó, sân khấu và ca nhạc cải lương (trước hết là ở tại đất Sài Gòn) luôn luôn có sự “canh tân” theo đà phát triển của xã hội, theo nhu cầu, thị hiếu của công chúng và những khả năng tự phát triển của chính nó... Trong loại hình nghệ thuật này, yếu tố ngoại sinh dường như lúc nào cũng năng động, chiếm ưu thế trong khi yếu tố nội sinh phải luôn linh hoạt để cố gắng làm cái “trục” cơ bản giữ gìn cho nó vẫn còn những dáng nét “truyền thống, dân tộc” nào đó!” (Huỳnh Quốc Thắng, 2006, tr. 249 - 257). Điều cần nhấn mạnh ở đây là cải lương “vẫn là cải lương chứ không thành một thứ nào khác” bởi vì nó không phải chỉ luôn luôn “biến động” mà chính là ở khả năng, bản lĩnh “định hình” của chính nó theo cách: “Định hình không đồng nghĩa với cố định. Định hình của âm nhạc cải lương là định hình trong sự vận động” và “Kế thừa mà không bảo thủ. Quy nạp mà chẳng bê nguyên. Phát triển không ngừng mà không đoạn lìa gốc rễ cội nguồn” (Ngô Hồng Khanh, 1990, tr. 61). Tóm lại, “cội nguồn” của vấn đề chính là ở bản sắc “dân tộc tính” mà sân khấu cải lương phải luôn giữ gìn: “Phạm trù “dân tộc” bao gồm hai mặt đối lập: Truyền thống và cách tân. Trong khi giữ truyền thống phải làm sao phù hợp với hiện nay và trong khi cách tân phải giữ gìn truyền thống... đảm bảo được “tính dân tộc phát triển”. Cải lương phải đậm đà tính dân tộc, phát triển nâng cao... để tính dân tộc đậm đà hơn chứ không phải pha loãng hoặc triệt tiêu nó” (Lê Duy Hạnh, 1991, tr. 19). Thực tế lịch sử phát triển của cải lương đã từng chứng minh rõ về điều đó. Những màn “chưng bươm bướm” với những bài nhạc Tây như Madelon,Marseillaise hoặc J ai deux amours, Marinella v.v... từng được đưa vào để giới thiệu diễn viên hay chen trong chương trình biểu diễn cải lương... nhưng rồi đã bị “bật ra”...! Trong khi đó, đàn ghi ta và violon trong khí nhạc phương Tây lại có thể tham gia thoải mái vào dàn nhạc cải lương với “điều kiện” là phải thành cây “ghi ta Tây Ban Nha phím lõm” và cây “vĩ cầm Tây lên dây theo ta”... Điều đó cho thấy ngay “cải lương” cũng không thể chấp nhận sự lai căng, mất gốc theo kiểu “bê nguyên xi” cũng như sự “chắp vá” tùy tiện!...
Theo hướng đó, nhiều vấn đề cần được xem xét lại ngay trên sân khấu cải lương, ví dụ có nên chăng có hai dàn nhạc tân và cổ: “Chúng ta chấp nhận cải lương có hai dàn nhạc cùng tồn tại trên một sân khấu. Cả hai, tuy khác nhau về phương tiện, nhưng nếu cùng đồng điệu với nhau về tâm hồn... thì có thể nói, hai dàn nhạc lúc bấy giờ đã trở thành là một, một bệ phóng cho tiếng hát của diễn viên chắp cánh bay cao và bay xa” (Trương Bỉnh Tòng, 1991, tr. 14 - 15) để từ đó có thể đặt vấn đề tiến tới “thống nhất hai dàn nhạc trên cơ sở lấy nhạc cụ dân tộc làm trung tâm” nhằm mục đích “hòa hợp sao cho chỉ có lợi, chỉ tăng cường sức biểu hiện của nhau mà không phá phách lẫn nhau, không có mâu thuẫn với nhau như quá trình hình thành một cộng đồng dân tộc vậy” (Quang Hải, tr. 32) (?)... Nhìn rộng ra, qua liên hệ thực tế, rõ ràng chúng ta thấy hình như công chúng đang chờ đợi “điều gì đó” lớn lao từ phía sân khấu cải lương mà thực chất của vấn đề phải chăng chính là: “Cải lương hôm nay, cái gốc không còn vững chắc như cải lương năm xưa. Và cái gốc, tức mặt khép kín để gìn giữ bản sắc dân tộc, một khi đã lỏng lẻo, thì sân khấu mở ra để tiếp thu cái mới, trong từng lúc và ở từng nơi như vừa qua, rõ ràng không sao tránh khỏi sự lộn xộn, cái tân lấn át cái cổ, hoặc tân cổ đã không giao duyên, mà lắm lúc trở thành vô duyên” (?), mà ở đây “khép kín và mở ra, đó là hai mặt thống nhất biện chứng trong cấu trúc” mô hình phát triển của cải lương,... có mặt khép thật kín để khẳng định bản sắc văn hóa của dân tộc, nhưng cái coi như đã được định hình, đồng thời lại có mặt mở thật rộng để luôn luôn quy nạp cái mới phù hợp...” (Trương Bỉnh Tòng, 1991, tr. 12).
Từ những định hướng như vừa nêu, bên cạnh những vấn đề lớn như việc đầu tư cơ sở vật chất, xây dựng cơ chế tổ chức quản lý, chế độ chính sách nuôi dưỡng nhân tài, khuyến khích sáng tạo... thì vấn đề đào tạo, xây dựng đội ngũ nghệ sĩ, nghệ nhân hiện nay vẫn là điểm mấu chốt của nghệ thuật cải lương. Trước nay người ta cũng đã từng đề cập về điều đó: “Tác giả, danh cầm giống như hai bờ của dòng sông, còn nghệ sĩ là nguồn nước chảy trong dòng sông ấy... Sở dĩ trước đây, một thời sân khấu cải lương thành công vang dội là nhờ có được những nhạc sư - danh cầm hay, thầy tuồng giỏi có thể “đo ni đóng giày” sáng tác theo sở trường của các diễn viên để mỗi người có thể tỏa sáng qua vai diễn” (Đỗ Hạnh, 2008, tr. 3). Cái hạn chế lớn nhất trong “thực trạng” cải lương hiện nay nếu không tính những nguyên nhân khách quan, phải chăng chính là do sự “phân tán” lực lượng, sự “thiếu đồng bộ” trong việc phát huy các yếu tố liên quan đến vai trò con người trong hoạt động cải lương như đã nói (?). Sự phát triển của hoạt động nghệ thuật nói chung, cải lương nói riêng bao giờ cũng vẫn là vấn đề tạo điều kiện, thúc đẩy sự nỗ lực, đột phá của những cá nhân tài năng... Hiện tượng Mộng Vân của những thập kỷ 30, 40 của thế kỷ trước hoặc những “tên tuổi” sáng mãi trong “làng” cải lương như Trần Hữu Trang, Ba Vân, Phùng Há, Năm Châu v.v... chính là sự minh chứng về vai trò của những “trụ cột” vững chắc cho sự tồn tại, phát triển mạnh mẽ của cải lương trong mọi giai đoạn. Qua thực tế, đội ngũ soạn giả, đạo diễn đủ sức sáng tạo ra những tác phẩm “tầm cỡ” và những diễn viên tài năng... vẫn là vấn đề lớn của sân khấu cải lương hiện nay: “Làm tác giả cải lương khó hay dễ? Rất dễ cho những người ghép chữ theo bài bản có sẵn và rất khó với những người biết xử lý văn học trong cái khuôn nhạc của bài bản... Không có diễn viên, không thể có sân khấu. Biểu diễn của diễn viên làm tâm điểm gặp nhau của tính văn học, tính âm nhạc, tính sân khấu...” (Lê Duy Hạnh, tr. 18).
Soạn giả Viễn Châu, tức danh cầm Bảy Bá với 87 tuổi đời, đã có hơn 70 năm tay viết, tay đàn, người từng được mệnh danh là “Vua (sáng tác) vọng cổ” với trên 2.000 bản vọng cổ và 50 kịch bản cải lương... cũng đã từng có sự khẳng định: “Lâu nay ai cũng nói cải lương xuống dốc, cần phải vực dậy, tôi nghĩ: Cải lương muốn vững vàng cần có nhiều yếu tố. Trước hết là đoàn hát, kế đến là bầu hát, rồi đào kép hát, và cuối cùng là tuồng hát. Bốn cái này luôn tồn tại, cải lương mới vững vàng...” (Sài Gòn Giải phóng, 1/11/2009, tr. 4). Ở đây, chúng ta hiểu “sự tồn tại của bốn yếu tố” như vừa nói phải là sự tồn tại vững chắc, đặc biệt là về chất lượng của nó. Ngoài ra, công tác nghiên cứu (cơ bản và ứng dụng) nói chung và công tác lý luận phê bình nói riêng đối với sân khấu cải lương hiện nay ngày càng là vấn đề cực kỳ quan trọng.
Bảo tồn và phát huy nghệ thuật ca nhạc tài tử và sân khấu cải lương giai đoạn hiện nay là vấn đề có nhiều ý nghĩa lớn lao nhưng cũng rất khó khăn bởi vì đây không phải là việc xây dựng một “cơ ngơi” mới mẻ mà là “trùng tu” và phát triển một “cơ đồ sự nghiệp” đã có sẵn. Nhưng, vấn đề không phải chỉ là việc “nâng cấp” mà là làm một cuộc “cách mạng” (với ý nghĩa là “tập trung cao độ, quyết liệt, tới nơi tới chốn”hơn, đặc biệt không chỉ ở các chủ trương mà còn là ở các điều kiện và giải pháp cụ thể) để mọi hoạt động các loại hình nghệ thuật này phải vừa “bảo tồn” được những giá trị tốt đẹp vốn có của nó, đồng thời vừa có thể “phát huy”, phát triển theo kịp và ngang tầm với yêu cầu cuộc sống hiện tại. Theo hướng đó, các thiết chế và mọi tổ chức hoạt động liên quan ca nhạc tài tử và sân khấu cải lương đã đến lúc cần được xem xét lại một cách toàn diện. Từ các nhóm ca nhạc tài tử đang hoạt động ở các trung tâm văn hóa, các điểm du lịch cho đến các đoàn cải lương ở các địa phương, đặc biệt là Nhà hát cải lương Trần Hữu Trang ở Thành phố Hồ Chí Minh... tất cả đều cần được rà soát lại về phương thức tổ chức, đặc biệt chú ý yếu tố chuyên môn trong mọi nội dung, hình thức hoạt động. Cũng vì định hướng ấy, rạp Hưng Đạo đang được đầu tư thiết kế xây dựng lại với quy mô lớn theo quy cách như một “thánh đường” của sân khấu cải lương, có nên chăng sẽ trở thành vừa là một nhà hát vừa là một bảo tàng, một thứ “bảo tàng sống” (live museum) nhằm “bảo tồn - phát huy” ca nhạc tài tử và cải lương một cách hoàn hảo, chuẩn mực nhất (?).../.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trên vùng đất Nam Bộ, ca nhạc tài tử và sau đó là sân khấu cải lương ra đời như là một bước “đột phá” về nghệ thuật trong tiến trình lịch sử phát triển về phương Nam của cộng đồng người Việt và văn hóa Việt Nam nói chung. Đặc điểm, tính chất và thành tựu lớn nhất của sự sáng tạo ấy có thể khái quát như sau: “Kịch hát cải lương có một quá trình hình thành từ ca nhạc tài tử, ca ra bộ đến sân khấu cải lương, quá trình ấy là sự chuyển hóa, kết hợp giữa âm nhạc, văn học, vũ đạo và trò diễn để phát triển thành một hình thức ca nhạc mới của sân khấu cải lương, mang tính hàn lâm dân gian, cộng đồng và bản địa” (Tuấn Giang, 1991, tr. 64).
Cho đến nay, mặc dù trải qua nhiều bước phát triển thăng trầm khác nhau, nhưng ca nhạc tài tử và sân khấu cải lương vẫn được khẳng định là một bộ phận quan trọng trong vốn di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc. Giá trị văn hóa của các loại hình này nhìn một cách bao quát đó là: “Bản chất của âm nhạc cải lương đã được tìm thấy từ trong các điệu thức dân tộc nằm rải rác từ Bắc chí Nam. Tính chất cơ bản của điệu thức là sự thể hiện sức sống của một dân tộc gồm nhiều sắc tộc cùng sống chung trong một lãnh thổ với những hoàn cảnh địa lý và màu sắc, ngôn ngữ khác biệt” (Đắc Nhẫn, tr. 79). Đây chính là cơ sở quan trọng để lý giải tại sao ca nhạc tài tử và cải lương có thể từng được đông đảo nhân dân trên nhiều vùng miền trong cả nước ưa thích.
Ngoài ra, trong thực tế diễn ra của bản thân các loại hình này với tư cách là một hình thức hoạt động văn hóa nghệ thuật, người ta còn nhấn mạnh đến khả năng phát huy sự sáng tạo hết sức linh hoạt của con người khi tham gia vào các hoạt động ấy: “Nếu bài bản âm nhạc cải lương là mẫu số chung thì tiếng đàn, giọng hát sẽ là những tử số riêng. Chính những tử số riêng ấy mới làm nên giá trị nghệ thuật cao hay thấp của mỗi phân số tài năng” (Ngô Hồng Khanh, tr. 60). Phải chăng đây là cơ sở để người ta có thể nói rằng sân khấu cải lương cũng như ca nhạc tài tử có thể trở thành là một trong những “mảnh đất thiêng” cho sự sáng tạo văn hóa nghệ thuật của con người...
2. Thực trạng tình hình hoạt động của ca nhạc tài tử và sân khấu cải lương (chủ yếu ở TP HCM và Nam Bộ)
Với những giá trị vốn có của nó như đã nêu, ca nhạc tài tử đang được tiến hành nghiên cứu, lập hồ sơ khoa học để đề nghị UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Riêng sân khấu cải lương mặc dù đã và đang gặp nhiều khó khăn, nhưng vẫn được sự quan tâm nhất định của nhiều lực lượng xã hội. Đã có những hình thức mạnh dạn đầu tư để dàn dựng thử nghiệm những vở cải lương “quy mô lớn” (Kiều Nguyệt Nga, Chiếc áo thiên nga...). Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố đã ban hành quyết định số 3478/QĐ-UB ngày 23/8/2002 về việc “Thành lập Ban chỉ đạo thực hiện nâng cấp nghệ thuật cải lương Thành phố Hồ Chí Minh”. Thành phố cũng đã triển khai kế hoạch xúc tiến xây dựng lại rạp Hưng Đạo thành nhà hát cải lương có quy mô “hiện đại”... Ngoài ra, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, Hội Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh... đã triển khai một số hoạt động nghiên cứu và tiến hành tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm về ca nhạc tài tử và cải lương. Giữa năm 2010, Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành cuộc điều tra xã hội học phục vụ cho đề tài mục tiêu quốc gia: “Điều tra, phát huy sân khấu truyền thống tại Thành phố Hồ Chí Minh: Sân khấu cải lương”. Với tổng số mẫu khảo sát 1.000 phiếu trên 3 nhóm đối tượng: Công chúng thường xem cải lương nhưng không đến sân khấu, công chúng thường xem cải lương tại các sân khấu, công chúng là sinh viên đang theo học tại các trường cao đẳng, đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả cho thấy, có 284 lần gặp câu trả lời chọn đến sân khấu cải lương (tỷ lệ 71,0 %), kế đến chọn hình thức xem băng đĩa có 257 lần (tỷ lệ 64,3 %), có 194 lần trả lời chọn xem cải lương trên kênh truyền hình (48,5 %) và nghe radio không đáng kể chỉ có 8 lần chọn (tỷ lệ 2,0 %). Qua kết quả khảo sát, chúng ta thấy lượng khán giả đi xem cải lương mỗi tháng 1 - 2 lần chiếm tỷ lệ 35,5 %, gần như xem hàng tuần tỉ lệ 7,8 % và không bỏ sót buổi nào tỷ lệ 2,7 %. Điều này cho thấy rằng tần suất đi xem cải lương của khán giả ở các sân khấu trong một tháng khoảng 40% và có đến hơn 50% khán giả không bao giờ đến sân khấu xem cải lương.
Nhìn chung, kết quả nghiên cứu 1.000 đối tượng cho thấy khán giả hiện nay đi xem cải lương vì nhiều lý do khác nhau tùy theo từng đối tượng nhưng chúng ta thấy rằng có khá nhiều khán giả xem cải lương để giải trí chiếm hơn 50 %, và họ biết thông tin về lịch diễn, vở diễn thông qua bạn bè hoặc người thân, những người tặng vé mời. Kế đến, chỉ có 30 % khán giả đi xem cải lương vì quan tâm đến nội dung vở diễn, số còn lại xem vì có diễn viên nổi tiếng, yêu thích và lý do xem vì hình thức vở diễn, xem cho biết không đáng kể. Về thể loại và nội dung các vở cải lương, có 414 ý kiến cho rằng họ thích những tuồng thuộc thể loại tâm lý xã hội, 344 ý kiến thích tuồng cổ, 201 ý kiến thích thể loại hương xa, và 90 ý kiến thích tuồng lịch sử... Nhìn chung, với những ý kiến thu thập được trong quá trình khảo sát cho thấy thị hiếu của khán giả hiện nay là những vở cải lương thuộc thể loại tâm lý xã hội lẫn tuồng cổ với những đề tài về xã hội hiện đại (có tính hài, nói lên các vấn nạn xã hội, giáo dục đạo làm người...) và những nội dung về lịch sử dân tộc... Về chất lượng các vở cải lương, nhiều ý kiến cho rằng tuồng cải lương hiện nay nhiều hơn trước nhưng chất lượng không cao như khán giả kỳ vọng, một số tuồng dàn dựng có vẻ quá hấp tấp, vội vàng và chất lượng nghệ thuật của một số tác phẩm giống như kiểu “mì ăn liền”, không sâu sắc, không ấn tượng và không đi sâu vào lòng người... Về chất lượng diễn viên, nhiều khán giả bày tỏ khi đến sân khấu cải lương, họ mong muốn tìm lại hình ảnh những diễn viên mà họ từng yêu thích ở thập niên 1960, 1970. Hiện nay có rất nhiều diễn viên cải lương trẻ, có chất giọng tốt nhưng hình như họ chưa tạo cho mình một phong cách, một làn hơi riêng như những người đi trước. Chính vì thế, những khán giả ở tuổi trung niên, người già, yêu thích cải lương càng khao khát nghe được những giọng ca đã từng làm say đắm lòng họ...
Cũng qua phân tích về thực trạng sân khấu cải lương hiện nay trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh kết hợp phiếu điều tra cùng nhiều nguồn thông tin khác nhau, đúng là đã có một số hiện tượng tiêu cực do “khuynh hướng thương mại hóa sân khấu, khuynh hướng chạy theo hình thức, coi nhẹ nội dung vở diễn” mà hệ quả trực tiếp của nó như một số nhà nghiên cứu đã nhận xét: “... qua nhiều năm tồn tại, ngành cải lương Nam Bộ hiện nay đã hình thành một kiểu cải lương ca sĩ, chứ không phải cải lương diễn viên mà đối tượng phục vụ là thính giả thích xem mặt ca sĩ, chứ không phải khán giả sân khấu” (Mịch Quang, tr. 37). Và, nặng nề hơn nữa, như có người đã nhấn mạnh rằng: “sân khấu cải lương và âm nhạc cải lương bị sa lầy trong sự chắp vá, lai căng suốt mấy chục năm, cho tới tận ngày nay. Càng thả mình chìm sâu trong vũng lầy đó, sân khấu cải lương và âm nhạc cải lương đã trở thành “thủ phạm” gieo mầm, nuôi dưỡng và phát triển một thị hiếu và tập quán thưởng thức nghệ thuật cũng chắp vá như bản thân nó trong công chúng. Nó làm sai lạc, méo mó cả bản chất của sân khấu cải lương...” (Thụy Loan, tr. 25) (?) Mặc dù vậy, qua khảo sát thực tế cho thấy, nghệ thuật cải lương vẫn còn nhiều khán giả yêu thích nó và đến với nó bằng những hình thức và trình độ cảm thụ khác nhau. Dù rằng có sự phân khúc thị trường đối với nhu cầu giải trí của người dân tại các quận huyện trên địa bàn Thành phố và đặc biệt là những ảnh hưởng từ xã hội tác động đến nhu cầu giải trí của công chúng hiện nay nhưng nhìn chung, chất lượng nghệ thuật của những vở diễn vẫn là một trong những yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến việc lựa chọn hình thức giải trí của công chúng tại đây.
3. Một số định hướng, giải pháp chiến lược để bảo tồn, phát huy giá trị nghệ thuật ca nhạc tài tử và sân khấu cải lương
Như đã nói, ca nhạc tài tử và sân khấu cải lương vẫn được sự quan tâm của xã hội và vẫn còn cơ hội để khẳng định giá trị của nó. Nhưng, thực tế hiện nay quả thực đang đặt ra nhiều thử thách gay go đối với các loại hình này, đặc biệt là với sân khấu cải lương. Cuộc sống mới của con người đương đại với những mối quan hệ xã hội mới, nhu cầu văn hóa tinh thần và thị hiếu thẩm mỹ mới, chưa kể trước “sự cạnh tranh” quyết liệt bởi những hình thức, phương tiện giải trí phong phú hiện nay... tất cả trở thành những “yêu cầu cao” theo hướng cải lương phải có những tuồng tích mới, cách dàn dựng, trình độ diễn xuất... tạo ra sự rung động tâm hồn thực sự, “đánh trúng” được những vấn đề mâu thuẫn gay gắt hiện tại, đáp ứng đúng nhu cầu, tâm lý con người thời đại... Soạn giả Lê Duy Hạnh, Chủ tịch Hội Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh từng khẳng định: “... xã hội loài người phát triển, tâm lý tình cảm và tư duy của con người cũng có những thay đổi và đã hình thành những quy luật mới... Vì vậy cải lương không thể dậm chân tại chỗ, bằng lòng với bài bản có sẵn. Cần có sự thanh lọc lại và phát triển nó...” (Lê Duy Hạnh, 1991, tr. 17). Thật ra, đây là thế mạnh vốn có của cải lương từng được khẳng định qua thực tế hoạt động: “Đúng như cái tên được đặt cho nó, sân khấu và ca nhạc cải lương (trước hết là ở tại đất Sài Gòn) luôn luôn có sự “canh tân” theo đà phát triển của xã hội, theo nhu cầu, thị hiếu của công chúng và những khả năng tự phát triển của chính nó... Trong loại hình nghệ thuật này, yếu tố ngoại sinh dường như lúc nào cũng năng động, chiếm ưu thế trong khi yếu tố nội sinh phải luôn linh hoạt để cố gắng làm cái “trục” cơ bản giữ gìn cho nó vẫn còn những dáng nét “truyền thống, dân tộc” nào đó!” (Huỳnh Quốc Thắng, 2006, tr. 249 - 257). Điều cần nhấn mạnh ở đây là cải lương “vẫn là cải lương chứ không thành một thứ nào khác” bởi vì nó không phải chỉ luôn luôn “biến động” mà chính là ở khả năng, bản lĩnh “định hình” của chính nó theo cách: “Định hình không đồng nghĩa với cố định. Định hình của âm nhạc cải lương là định hình trong sự vận động” và “Kế thừa mà không bảo thủ. Quy nạp mà chẳng bê nguyên. Phát triển không ngừng mà không đoạn lìa gốc rễ cội nguồn” (Ngô Hồng Khanh, 1990, tr. 61). Tóm lại, “cội nguồn” của vấn đề chính là ở bản sắc “dân tộc tính” mà sân khấu cải lương phải luôn giữ gìn: “Phạm trù “dân tộc” bao gồm hai mặt đối lập: Truyền thống và cách tân. Trong khi giữ truyền thống phải làm sao phù hợp với hiện nay và trong khi cách tân phải giữ gìn truyền thống... đảm bảo được “tính dân tộc phát triển”. Cải lương phải đậm đà tính dân tộc, phát triển nâng cao... để tính dân tộc đậm đà hơn chứ không phải pha loãng hoặc triệt tiêu nó” (Lê Duy Hạnh, 1991, tr. 19). Thực tế lịch sử phát triển của cải lương đã từng chứng minh rõ về điều đó. Những màn “chưng bươm bướm” với những bài nhạc Tây như Madelon,Marseillaise hoặc J ai deux amours, Marinella v.v... từng được đưa vào để giới thiệu diễn viên hay chen trong chương trình biểu diễn cải lương... nhưng rồi đã bị “bật ra”...! Trong khi đó, đàn ghi ta và violon trong khí nhạc phương Tây lại có thể tham gia thoải mái vào dàn nhạc cải lương với “điều kiện” là phải thành cây “ghi ta Tây Ban Nha phím lõm” và cây “vĩ cầm Tây lên dây theo ta”... Điều đó cho thấy ngay “cải lương” cũng không thể chấp nhận sự lai căng, mất gốc theo kiểu “bê nguyên xi” cũng như sự “chắp vá” tùy tiện!...
Theo hướng đó, nhiều vấn đề cần được xem xét lại ngay trên sân khấu cải lương, ví dụ có nên chăng có hai dàn nhạc tân và cổ: “Chúng ta chấp nhận cải lương có hai dàn nhạc cùng tồn tại trên một sân khấu. Cả hai, tuy khác nhau về phương tiện, nhưng nếu cùng đồng điệu với nhau về tâm hồn... thì có thể nói, hai dàn nhạc lúc bấy giờ đã trở thành là một, một bệ phóng cho tiếng hát của diễn viên chắp cánh bay cao và bay xa” (Trương Bỉnh Tòng, 1991, tr. 14 - 15) để từ đó có thể đặt vấn đề tiến tới “thống nhất hai dàn nhạc trên cơ sở lấy nhạc cụ dân tộc làm trung tâm” nhằm mục đích “hòa hợp sao cho chỉ có lợi, chỉ tăng cường sức biểu hiện của nhau mà không phá phách lẫn nhau, không có mâu thuẫn với nhau như quá trình hình thành một cộng đồng dân tộc vậy” (Quang Hải, tr. 32) (?)... Nhìn rộng ra, qua liên hệ thực tế, rõ ràng chúng ta thấy hình như công chúng đang chờ đợi “điều gì đó” lớn lao từ phía sân khấu cải lương mà thực chất của vấn đề phải chăng chính là: “Cải lương hôm nay, cái gốc không còn vững chắc như cải lương năm xưa. Và cái gốc, tức mặt khép kín để gìn giữ bản sắc dân tộc, một khi đã lỏng lẻo, thì sân khấu mở ra để tiếp thu cái mới, trong từng lúc và ở từng nơi như vừa qua, rõ ràng không sao tránh khỏi sự lộn xộn, cái tân lấn át cái cổ, hoặc tân cổ đã không giao duyên, mà lắm lúc trở thành vô duyên” (?), mà ở đây “khép kín và mở ra, đó là hai mặt thống nhất biện chứng trong cấu trúc” mô hình phát triển của cải lương,... có mặt khép thật kín để khẳng định bản sắc văn hóa của dân tộc, nhưng cái coi như đã được định hình, đồng thời lại có mặt mở thật rộng để luôn luôn quy nạp cái mới phù hợp...” (Trương Bỉnh Tòng, 1991, tr. 12).
Từ những định hướng như vừa nêu, bên cạnh những vấn đề lớn như việc đầu tư cơ sở vật chất, xây dựng cơ chế tổ chức quản lý, chế độ chính sách nuôi dưỡng nhân tài, khuyến khích sáng tạo... thì vấn đề đào tạo, xây dựng đội ngũ nghệ sĩ, nghệ nhân hiện nay vẫn là điểm mấu chốt của nghệ thuật cải lương. Trước nay người ta cũng đã từng đề cập về điều đó: “Tác giả, danh cầm giống như hai bờ của dòng sông, còn nghệ sĩ là nguồn nước chảy trong dòng sông ấy... Sở dĩ trước đây, một thời sân khấu cải lương thành công vang dội là nhờ có được những nhạc sư - danh cầm hay, thầy tuồng giỏi có thể “đo ni đóng giày” sáng tác theo sở trường của các diễn viên để mỗi người có thể tỏa sáng qua vai diễn” (Đỗ Hạnh, 2008, tr. 3). Cái hạn chế lớn nhất trong “thực trạng” cải lương hiện nay nếu không tính những nguyên nhân khách quan, phải chăng chính là do sự “phân tán” lực lượng, sự “thiếu đồng bộ” trong việc phát huy các yếu tố liên quan đến vai trò con người trong hoạt động cải lương như đã nói (?). Sự phát triển của hoạt động nghệ thuật nói chung, cải lương nói riêng bao giờ cũng vẫn là vấn đề tạo điều kiện, thúc đẩy sự nỗ lực, đột phá của những cá nhân tài năng... Hiện tượng Mộng Vân của những thập kỷ 30, 40 của thế kỷ trước hoặc những “tên tuổi” sáng mãi trong “làng” cải lương như Trần Hữu Trang, Ba Vân, Phùng Há, Năm Châu v.v... chính là sự minh chứng về vai trò của những “trụ cột” vững chắc cho sự tồn tại, phát triển mạnh mẽ của cải lương trong mọi giai đoạn. Qua thực tế, đội ngũ soạn giả, đạo diễn đủ sức sáng tạo ra những tác phẩm “tầm cỡ” và những diễn viên tài năng... vẫn là vấn đề lớn của sân khấu cải lương hiện nay: “Làm tác giả cải lương khó hay dễ? Rất dễ cho những người ghép chữ theo bài bản có sẵn và rất khó với những người biết xử lý văn học trong cái khuôn nhạc của bài bản... Không có diễn viên, không thể có sân khấu. Biểu diễn của diễn viên làm tâm điểm gặp nhau của tính văn học, tính âm nhạc, tính sân khấu...” (Lê Duy Hạnh, tr. 18).
Soạn giả Viễn Châu, tức danh cầm Bảy Bá với 87 tuổi đời, đã có hơn 70 năm tay viết, tay đàn, người từng được mệnh danh là “Vua (sáng tác) vọng cổ” với trên 2.000 bản vọng cổ và 50 kịch bản cải lương... cũng đã từng có sự khẳng định: “Lâu nay ai cũng nói cải lương xuống dốc, cần phải vực dậy, tôi nghĩ: Cải lương muốn vững vàng cần có nhiều yếu tố. Trước hết là đoàn hát, kế đến là bầu hát, rồi đào kép hát, và cuối cùng là tuồng hát. Bốn cái này luôn tồn tại, cải lương mới vững vàng...” (Sài Gòn Giải phóng, 1/11/2009, tr. 4). Ở đây, chúng ta hiểu “sự tồn tại của bốn yếu tố” như vừa nói phải là sự tồn tại vững chắc, đặc biệt là về chất lượng của nó. Ngoài ra, công tác nghiên cứu (cơ bản và ứng dụng) nói chung và công tác lý luận phê bình nói riêng đối với sân khấu cải lương hiện nay ngày càng là vấn đề cực kỳ quan trọng.
Bảo tồn và phát huy nghệ thuật ca nhạc tài tử và sân khấu cải lương giai đoạn hiện nay là vấn đề có nhiều ý nghĩa lớn lao nhưng cũng rất khó khăn bởi vì đây không phải là việc xây dựng một “cơ ngơi” mới mẻ mà là “trùng tu” và phát triển một “cơ đồ sự nghiệp” đã có sẵn. Nhưng, vấn đề không phải chỉ là việc “nâng cấp” mà là làm một cuộc “cách mạng” (với ý nghĩa là “tập trung cao độ, quyết liệt, tới nơi tới chốn”hơn, đặc biệt không chỉ ở các chủ trương mà còn là ở các điều kiện và giải pháp cụ thể) để mọi hoạt động các loại hình nghệ thuật này phải vừa “bảo tồn” được những giá trị tốt đẹp vốn có của nó, đồng thời vừa có thể “phát huy”, phát triển theo kịp và ngang tầm với yêu cầu cuộc sống hiện tại. Theo hướng đó, các thiết chế và mọi tổ chức hoạt động liên quan ca nhạc tài tử và sân khấu cải lương đã đến lúc cần được xem xét lại một cách toàn diện. Từ các nhóm ca nhạc tài tử đang hoạt động ở các trung tâm văn hóa, các điểm du lịch cho đến các đoàn cải lương ở các địa phương, đặc biệt là Nhà hát cải lương Trần Hữu Trang ở Thành phố Hồ Chí Minh... tất cả đều cần được rà soát lại về phương thức tổ chức, đặc biệt chú ý yếu tố chuyên môn trong mọi nội dung, hình thức hoạt động. Cũng vì định hướng ấy, rạp Hưng Đạo đang được đầu tư thiết kế xây dựng lại với quy mô lớn theo quy cách như một “thánh đường” của sân khấu cải lương, có nên chăng sẽ trở thành vừa là một nhà hát vừa là một bảo tàng, một thứ “bảo tàng sống” (live museum) nhằm “bảo tồn - phát huy” ca nhạc tài tử và cải lương một cách hoàn hảo, chuẩn mực nhất (?).../.
Theo doithoaiphattrien.vn