Hiền tài là “nguyên khí của quốc gia”.

Đăng lúc: 2020-10-21 14:00:00 | Bởi: admin | Lượt xem: 1 | Chuyên mục: Tinh hoa nghề Việt

TTPT - Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã có rất nhiều kinh nghiệm trong việc phát hiện, tuyển chọn và trọng dụng nhân tài, coi người hiền tài là “nguyên khí của quốc gia”. Truyền thống coi trọng nhân tài được kế thừa, phát huy qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhất quán thực hiện trong kế sách trị nước, an dân của nhiều triều đình quân chủ, coi như một tiêu chí hành xử của các bậc minh quân.

Thu hút, tuyển chọn người tài

Đất nước trong mọi hoàn cảnh đều cần đến người hiền tài. Trong quan niệm truyền thống, trọng dụng người hiền tài là quốc sách của quốc gia, dân tộc, quyết định sự hưng thịnh, thành bại của đất nước. Cầu người hiền tài luôn là phương châm và là một trong những phép trị nước được các triều đại phong kiến nước ta rất coi trọng. Chính vì vậy, trong lịch sử dân tộc Việt Nam đã có lớp lớp nhân tài trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Họ chính là bộ phận ưu tú nhất, góp phần to lớn vào công cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, xây dựng và phát triển đất nước.

Vua Quang Trung là người vô cùng sâu sắc trong vấn đề cầu hiền tài. Vốn là ông vua xuất thân từ tầng lớp áo vải, nhưng với năng lực xuất sắc, sự nhạy cảm với thực tiễn, ông thấy được người hiền tài là “rường cột” của nước nhà, nên đã đặt việc cầu hiền tài cho đất nước lên hàng đầu.
Để có một đội ngũ quan lại có đủ đức và tài, ông cha ta đã đặc biệt quan tâm đến việc thu hút, tuyển dụng bằng nhiều hình thức, với sự kiểm soát chặt chẽ về chất lượng.

Bắt đầu từ đời nhà Lý, việc sử dụng tầng lớp tinh hoa (tầng lớp tri thức Nho giáo) tham gia trực tiếp vào bộ máy quản lý đã được xem là một nguyên tắc. Năm 1075, Lý Nhân Tông đã xuống chiếu thi Minh kinh bác học và thi Nho học tam trường. Đây là khoa thi đầu tiên chọn nhân tài vào Hàn lâm viện, mở đầu cho truyền thống khoa cử ở Việt Nam từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX. Việc thi cử được tổ chức rất bài bản, đào tạo quan văn được tổ chức ở Quốc Tử Giám, đào tạo quan võ được tổ chức ở Giảng Võ đường. Việc lựa chọn Trạng nguyên được chính nhà Vua ra đề và chấm thi. Đến thời nhà Lê, khoa cử đã được chế định tương đối hoàn chỉnh. Cứ cách ba năm có một kỳ thi. Thi Hương vào các năm Tý, Mão, Ngọ, Dậu, còn thi Hội vào các năm Sửu, Thìn, Mùi, Tuất. Mỗi kỳ thi, thí sinh phải qua ba hoặc bốn đợt thi (gọi là tam hoặc tứ trường).

Bên cạnh hình thức khoa cử thì tiến cử và bảo cử cũng là các biện pháp mà các triều đại phong kiến Việt Nam thường sử dụng để tuyển chọn nhân tài thông qua giới thiệu, đề nghị của các quan chức cao cấp trong triều đình. Phép tiến cử và bảo cử (thời Lý - Trần còn gọi là tuyển cử) được áp dụng khá nhiều dưới thời Hậu Lê và thời Nguyễn.

Việc tiến cử và bảo cử thường được khởi đầu bằng động thái “cầu hiền” của Vua hoặc triều đình. Chiếu cầu hiền của nhà Vua thường tuyên bố rõ chính sách chiêu hiền, đãi sĩ, cổ vũ người tài ra phò Vua giúp nước, đồng thời lệnh cho các địa phương tiến cử nhân tài. Việc tiến cử và bảo cử giúp nhà Vua lựa chọn được quan chức thực tài phải tuân thủ các quy định khá chặt chẽ, như: Phải được giới thiệu bởi các quan chức nhà nước; Trước khi bổ nhiệm phải qua kỳ sát cử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Người tiến cử phải chịu trách nhiệm về tư cách và năng lực của người mà mình tiến cử. Phải tâu trình rõ phẩm hạnh, tài năng của người được tiến cử. Nếu tiến cử đúng người tài giỏi, đắc dụng thì người có công tiến cử sẽ được trọng thưởng, ngược lại nếu tiến cử sai người, hoặc lợi dụng tiến cử để kéo bè kết cánh sẽ bị biếm phạt nặng. Các đình thần và quan lại địa phương không thực hiện việc tiến cử người hiền tài cũng bị Vua trách phạt.
Hình thức tự tiến cử, tuy ít phổ biến nhưng cũng có không ít trường hợp người tài tự tiến cử mình. Họ thường là những người có thực tài, có bản lĩnh. Đôi khi để tự tiến cử, họ phải chứng tỏ tài cao, chí lớn bằng những hành vi phi thường để thuyết phục người khác dùng mình một cách xứng đáng. Ngoài ra, chế độ nhiệm tử cũng là một trong những biện pháp tuyển chọn người tài của ông cha ta. Đây là phương thức tuyển chọn con cháu của quý tộc công thần và quan chức dựa trên âm trạch của ông cha, và được áp dụng chủ yếu thời Lý - Trần…

Trọng dụng, tôn vinh người tài

Đồng thời với việc coi trọng phát hiện, tuyển chọn hiền tài, các chính sách trọng dụng, đãi ngộ cũng như chế tài thưởng phạt nghiêm minh cũng được ông cha ta sử dụng rất hiệu quả. Việc trọng dụng được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, như: Những người đỗ đạt được bổ nhiệm vào những chức vụ lớn, nhỏ tuỳ theo mức độ tài năng và sở trường; được ban tặng bổng lộc (cấp tiền, ruộng vườn, đất đai, nhà cửa,...). Người đỗ đạt được tôn vinh với hàng loạt lễ nghi long trọng như: Lễ xướng danh, Lễ ban yến (những người đỗ đạt cao được Vua mở tiệc chiêu đãi), Lễ ban mũ áo, Lễ vinh quy và đặc biệt là cho khắc tên trên bia đá tại Văn Miếu.

Theo sách Khâm định Đại nam hội điển sự lệ, triều Nguyễn rất hậu đãi những người đỗ đạt tiến sĩ. Ngoài việc tổ chức lễ truyền lô (xướng danh tiến sĩ) tại điện Thái Hòa, các tân tiến sĩ sẽ được tham dự yến tiệc, ban thưởng áo lụa, vàng bạc, dạo phố vinh quy và ban chức quan. Các tiến sĩ được khắc tên vào văn bia dựng ở Văn Miếu để lưu danh thiên cổ.

Đồng thời, để bảo đảm cho quan lại chăm chỉ làm việc, phấn đấu hết sức mình và thanh liêm khi tại chức, triều đình đã ban hành những quy định nghiêm khắc, rõ ràng. Để tránh việc kéo bè, kéo cánh, thời phong kiến đã áp dụng hình thức định kỳ thuyên chuyển quan lại, từ nơi này sang nơi khác, có khi di chuyển rất xa. Việc bổ dụng quan lại được tuân theo một luật lệ rất nghiêm ngặt là Luật Hồi tỵ với mục đích nhằm khống chế đội ngũ quan lại, ngăn ngừa việc họ lạm dụng quyền chức, địa vị để kéo bè kéo cánh, âm mưu chống lại triều đình… Sau một thời gian làm việc, triều đình thường xuyên tổ chức các đợt “khảo hạch” để bồi dưỡng thêm kiến thức và có chế độ đãi ngộ phù hợp. Cùng với việc “khảo hạch” quan lại, một số triều đại phong kiến cũng áp dụng chế độ thưởng, phạt nghiêm minh. Đối với người đỗ cao, làm việc giỏi được cất nhắc, lên chức, cấp bổng lộc. Mặt khác, quy định nhiều hình thức xử phạt để bảo đảm cho các quan lại phải tuyệt đối trung thành với Vua, thanh liêm, chính trực như hạ lương, giáng chức, tống giam, cắt hết chức tước, bổng lộc, bị lưu đày hoặc đẩy xuống làm thứ dân... Dưới thời Vua Lê Thánh Tông, Lệ Thải quan viên ban bố vào năm 1478 chỉ rõ, quan viên nếu “hèn kém... không làm nổi việc” thì “đều bắt phải nghỉ việc” và chọn người “có tài năng, kiến thức, quen thạo việc mà bổ vào thay”.

Bên cạnh việc trọng dụng người hiền tài, ông cha ta cũng đã chú trọng đến vấn đề tôn vinh các bậc hiền tài, những người có công lớn với đất nước. Những người có công trạng lớn đều được đích thân nhà Vua trọng thưởng và khi mất đều được nhân dân tôn thờ và suy tôn là thần, là thánh.

Kế thừa và phát huy truyền thống trọng dụng người hiền tài của ông cha trong lịch sử, từ khi được thành lập đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến việc thu hút, trọng dụng nhân tài, đánh giá cao năng lực sáng tạo và khả năng đóng góp to lớn của tài năng cho đất nước. Điều này thể hiện rất rõ qua những bài học quý báu về thu hút, trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng cho đến khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh không nói và viết nhiều về sử dụng người hiền tài, nhưng thông qua cách nhìn nhận, đánh giá, cách ứng xử, trọng dụng, tập hợp người hiền tài vào đội ngũ những người làm cách mạng, Người đã để lại bài học quý báu cho chúng ta trong việc đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng người hiền tài phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh và xây dựng đất nước.

Đất nước ta không thiếu nhân tài bởi tính chịu khó học tập được coi là một trong những truyền thống tốt đẹp của người Việt. Điều quan trọng là cần thay đổi cơ chế trong việc phát hiện, tuyển chọn và trọng dụng nhân tài, coi người hiền tài là “nguyên khí của quốc gia”; trọng dụng nhân tài sao cho hiệu quả; thật sự đưa những người có năng lực vào bộ máy để họ cống hiến cho xã hội. Nhìn rộng ra thế giới có thể thấy vấn đề lựa chọn, trọng dụng nhân tài là một lời giải trong bài toán đi tìm nguyên nhân dẫn đến sự thịnh vượng của các nước.                                          

Theo doithoaiphattrien.vn