Trợ giúp pháp lý trong các Chương trình mục tiêu quốc gia: Đã đến lúc đo hiệu quả bằng kết quả cuối cùng
Trong giai đoạn 2021–2025, các Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) đều xác định trợ giúp pháp lý (TGPL) là một nội dung quan trọng nhằm bảo đảm quyền tiếp cận công lý của người yếu thế.
![]() |
| Hội nghị tập huấn CTMTQG tại xã Hòa Lợi, huyện Giồng Riềng (nay là xã Hòa Hưng, An Giang) -Ảnh minh họa |
Theo các Thông tư và Công văn hướng dẫn của Bộ Tư pháp, hoạt động TGPL trong các CTMTQG thời gian qua tập trung chủ yếu vào việc nâng cao năng lực cho người thực hiện TGPL; bồi dưỡng cán bộ ở cơ sở; đẩy mạnh truyền thông, phổ biến thông tin về quyền được TGPL. Mục tiêu cuối cùng được đặt ra rất rõ: bảo đảm 100% người thuộc diện được TGPL được tiếp cận và cung cấp dịch vụ TGPL khi có nhu cầu.
Về mặt chủ trương, định hướng này là đúng. Tuy nhiên, nếu nhìn thẳng vào kết quả cuối cùng – tức là số lượng người yếu thế thực sự được thụ hưởng dịch vụ TGPL thông qua các CTMTQG – thì vẫn còn một khoảng cách nhất định giữa mục tiêu và thực tiễn.
Khi “đầu vào” khá đầy đủ nhưng “đầu ra” chưa tương xứng
Không thể phủ nhận rằng trong những năm qua, hoạt động tập huấn, truyền thông về TGPL đã được triển khai khá rộng. Nhiều lớp bồi dưỡng được tổ chức; nhiều lượt cán bộ cơ sở, hòa giải viên, người có uy tín trong cộng đồng được trang bị kiến thức về TGPL; tờ gấp, tài liệu, bảng thông tin TGPL được phát hành và niêm yết tại cơ sở.
Tuy nhiên, một câu hỏi cần được đặt ra một cách thẳng thắn là: bao nhiêu trong số những hoạt động đó đã chuyển hóa thành vụ việc TGPL cụ thể cho người dân? Bao nhiêu người thuộc diện được TGPL đã thực sự được hỗ trợ kịp thời trong các tranh chấp, rủi ro pháp lý của mình thông qua kênh CTMTQG?
Theo quy định tại Điều 17a Thông tư số 03/2021/TT-BTP, Phòng Tư pháp và chính quyền cơ sở có trách nhiệm giới thiệu người thuộc diện được TGPL đến Trung tâm TGPL nhà nước khi họ có yêu cầu. Trên thực tế, đối với nhóm đối tượng tham gia tố tụng, như người bị buộc tội, bị hại, đương sự trong thời gian qua, các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện tốt việc giải thích, thông tin, thông báo về quyền được TGPL theo tinh thần của Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC.
Nói cách khác, với các vụ việc đã bước vào tố tụng, “đường vào” TGPL tương đối thông suốt do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện, số liệu này không được tính cho CTMTQG. Nhưng ở khu vực ngoài tố tụng, đặc biệt là giai đoạn tiền tố tụng, nơi điểm nóng khiếu kiện; các tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình, đất đai, vay mượn, mâu thuẫn cộng đồng mới phát sinh, thì việc giới thiệu người dân đến Trung tâm TGPL nhà nước lại rất hạn chế. Đây chính là “điểm nghẽn” lớn nhất hiện nay.
![]() |
| Hướng dẫn khởi kiện TAND khu vực 5 tỉnh An Giang - Ảnh minh họa |
Đã đến lúc đo hiệu quả bằng “bàn thắng”
Có thể hình dung TGPL như một trận bóng đá. Tập huấn, đá giao hữu, bồi dưỡng thể lực,... Tất cả đều cần thiết. Nhưng kết quả cuối cùng không nằm ở thời gian cầm bóng trên sân, số đường chuyền, mà nằm ở bàn thắng được ghi.
Với TGPL, “bàn thắng” chính là số vụ việc cụ thể được thụ lý và số người dân thực sự được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp. Nếu chỉ thống kê được đã tổ chức bao nhiêu lớp tập huấn, bao nhiêu lượt người tham dự, lắp đặt được bao nhiêu bảng thông tin mà không cân đong, đo đếm được bằng sản phẩm cuối cùng, thì rất khó đánh giá đúng hiệu quả thực chất của chính sách.
Trong khi đó, tinh thần chỉ đạo chung hiện nay của Đảng và Nhà nước là “rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ sản phẩm”. Đặt TGPL trong tinh thần chỉ đạo này, thì “sản phẩm” cần được nhìn nhận rõ ràng chính là vụ việc TGPL được giải quyết và người dân cụ thể được thụ hưởng.
Giảm việc hành chính, để trợ giúp viên pháp lý làm đúng việc của mình
Một thực tế cần được nhìn nhận thẳng thắn là hiện nay, trợ giúp viên pháp lý vẫn phải tham gia khá nhiều hoạt động hành chính, như đi tập huấn cho cơ sở, dự hội nghị, tham gia truyền thông,... Trong khi đó, nhiệm vụ cốt lõi của họ là trực tiếp tư vấn pháp luật, đại diện ngoià tố tụng và bào chữa, bảo vệ cho người được TGPL trong các vụ án.
Nếu trợ giúp viên pháp lý bị phân tán quá nhiều vào các công việc gián tiếp, thì thời gian và tâm sức dành cho vụ việc cụ thể sẽ bị thu hẹp. Do đó, cơ quan quản lý cần xem xét giảm bớt các công việc hành chính đối với trợ giúp viên pháp lý, để họ có điều kiện chuyên tâm hơn cho hoạt động nghề nghiệp cốt lõi, đúng với vai trò đã được pháp luật giao.
Chuyển trọng tâm hỗ trợ về vụ việc
Ngược lại, hòa giải viên và cán bộ ở cơ sở lại chính là lực lượng cần được tăng cường hỗ trợ. Họ là người tiếp xúc sớm nhất với các mâu thuẫn, tranh chấp trong cộng đồng, là người “nghe câu chuyện đầu tiên” khi vụ việc còn nhiều khả năng tháo gỡ.
Một hướng tiếp cận mới cần được nghiên cứu là sử dụng kinh phí của CTMTQG để hỗ trợ trực tiếp cho hòa giải viên, cán bộ ở cơ sở khi họ thực hiện việc giải thích, hướng dẫn và giới thiệu thành công người dân thuộc diện được TGPL đến Trung tâm, thông qua mẫu giấy giới thiệu thống nhất, đơn giản (không cần đóng dấu).
Điểm mấu chốt là chỉ chi tiền bồi dưỡng khi có sản phẩm cuối cùng, tức là khi Trung tâm đã thụ lý chính thức vụ việc và thực sự cung cấp dịch vụ TGPL cho người dân. Cách làm này vừa bảo đảm sử dụng kinh phí đúng trọng tâm, vừa tạo động lực thực chất cho cơ sở trong việc chủ động phát hiện và kết nối vụ việc.
Mở rộng trọng tâm giới thiệu ở giai đoạn tiền tố tụng
Song song đó, cần xem xét sửa đổi Thông tư số 03/2021/TT-BTP, đặc biệt là Điều 17a khi thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp; theo hướng “rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ sản phẩm”; với diện được TGPL như Điều 17a Thông tư đã nêu: “người bị buộc tội, bị hại, đương sự” trong các vụ án đã được các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện thì không nên quy định ở đây; còn lại các vụ việc TGPL ngoài tố tụng, ở giai đoạn tiền tố tụng (tư vấn pháp luật và đại diện ngoài tố tụng) thì giao cho chính quyền cơ sở, cơ quan hành chính giải quyết khiếu nại, đảm bảo phù hợp với tinh thần của Luật TGPL.
Thực tiễn cho thấy, nếu người dân được TGPL từ sớm, nhiều tranh chấp sẽ không cần phải đưa ra Tòa án hay khiếu kiện lên cấp trên. Điều này không chỉ bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người yếu thế, mà còn tiết kiệm đáng kể chi phí xã hội, giảm áp lực cho bộ máy nhà nước và giữ gìn ổn định cộng đồng.
Trở về với mục tiêu cốt lõi trong bối cảnh mới
Trong thời gian tới, nhiều CTMTQG mới sẽ tiếp tục được triển khai. Trong bối cảnh đó, yêu cầu “rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ sản phẩm” càng trở nên cấp thiết.
Đối với TGPL, điều này đồng nghĩa với việc phải xác định lại vai trò của từng chủ thể trong chuỗi thực hiện: trợ giúp viên pháp lý tập trung giải quyết vụ việc; hòa giải viên và cán bộ cơ sở tập trung phát hiện, giải thích, giới thiệu, làm thủ tục TGPL; cơ quan quản lý đảm nhiệm các công việc còn lại như: tập huấn, truyền thông,…và kiểm soát kết quả cuối cùng. Khi mỗi khâu đều có sản phẩm cụ thể, đo đếm được, thì TGPL mới đi vào thực chất trong các CTMTQG.
Chung quy lại, đổi mới cách tiếp cận TGPL là làm sâu hơn, đúng hơn và sát với đời sống hơn, nhất là trong bối cảnh khi chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ, và dần thay thế những phương thức truyền thống vốn đã quá quen thuộc trong nhiều thập kỷ qua.
Khi hiệu quả được đo bằng số người dân được thụ hưởng dịch vụ TGPL – tức là những “bàn thắng” thực sự – thì TGPL mới phát huy trọn vẹn vai trò của mình trong bảo đảm công bằng xã hội và phát triển bền vững từ cơ sở.

