TÌM HIỂU BẢN VỌNG CỔ HOÀI LANG ĐẦU TIÊN
Đăng lúc: 2025-02-26 14:01:00
|
Bởi: admin
|
Lượt xem: 155
|
Chuyên mục: Tinh hoa nghề Việt
Trong dòng chảy lịch sử của âm nhạc Việt Nam, bản Vọng cổ hoài lang (vốn mang tên Dạ cổ hoài lang thuở sơ khai) nổi bật như một hiện tượng nghệ thuật đa sắc màu với muôn vàn biến thể và danh xưng qua các thời kỳ. Những tranh luận sôi nổi về việc chuyển đổi nhịp điệu và đặt tên tác phẩm vào đầu thế kỷ XX đã trở thành bệ phóng để nhạc sĩ Cao Văn Lầu khẳng định dấu ấn cá nhân, định hình phong cách độc đáo cho kiệt tác này. Nhờ tài năng của ông, bản Vọng cổ hoài lang không chỉ là di sản âm nhạc quý giá mà còn là minh chứng cho sự sáng tạo không ngừng chảy của nghệ thuật truyền thống Việt Nam.
Trong Nhạc tài tử có một hiện tượng lạ, đó là bản Dạ cổ hoài lang từ khi ra đời đến nay, không những có rất nhiều phiên bản, mà trong quá trình phát triển lên bản Vọng cổ cũng có nhiều tên gọi khác nhau: Dạ cổ hoài lang, Vọng cổ hoài lang, Vọng cổ, Vọng cổ Bạc Liêu, Tân cổ giao duyên, Vọng cổ hài… Vừa được khai sinh không bao lâu thí đã có người đề nghị đổi tên thành Vọng cổ hoài lang. Đối với vần đề này, ông Cao Kiến Thiết là con trai lớn của Nhạc sĩ Cao Văn Lầu đã có phát biểu trong bài tham luận của ông trong cuộc hội thảo ‘Cao Văn Lầu – nhân 70 năm ra đời bản Dạ cổ hoài lang” đã được tổ chức tại tỉnh Minh Hải năm 1989, có nội dung như sau: “Theo ba tôi kể thì năm 1919, nghĩa là sau một thời gian phổ biến bản nhạc và lời ca … có ông Trần Xuân Thơ … đề nghị thay chữ Dạ cổ thành Vọng cổ” (1),
Ông Cao Kiến Thiết kể lại lúc ấy cha ông đã đem chuyện này bàn bạc với các anh em đồng môn, nhưng không ai đồng ý đổi tên, chí có ông Bảy Kiên và Trịnh Thiên Tư có ý kiến hơi khác, theo hai ông thì lúc bấy giờ đa số bài bản Nhạc tài tử đều dùng nhip 4, vậy bản Dạ cổ hoài lang cũng nên chuyển sang nhip 4 cho đồng bộ, bản nhip 4 mang tên Vọng cổ hoài lang, bản nhịp 2 là bản gốc nên giữ lại tên cũ. Sau khi suy nghĩ, cha ông đã đồng ý chuyển bản Dạ cổ hoài lang từ nhip 2 thành nhịp 4 và bản này mang tên Vọng cổ hoài lang..

Từ đầu năm 1920, cái tên Vọng cổ hoài lang đã ra đời, Nhưng không hiểu sao khi bản Vọng cổ nhịp 4 này được in vào sách Ca nhạc cổ điển của người sư đệ Trịnh Thiên Tư năm 1962, lại mang tên là Vọng cổ nguyên thủy. Rất tiếc trong bản nhip 4 này chỉ có bản đờn mà không có lời mới. Sách Ca nhạc cổ điển đã được ông Cao Văn Lầu xác nhận và viết lời giới thiệu. Phiên bản nhịp 4 này tuy do ông Cao Văn Lầu khởi xướng nhưng được Soạn giả Trịnh Thiên Tư nhuận sắc, lại in trong sách Ca nhạc cổ điển, nên người đời sau thường gọi phiên bản Trịnh Thiên Tư.
Cũng trong thời gian này, có ông Tư Chơi (Huỳnh Thủ Trung) là một nghệ sĩ ở miền trên, vì mến mộ tài danh của huynh đệ ông Cao Văn Lầu, nên đã đến Bạc Liêu giao lưu và học hỏi. Ông Tư Chơi đã thọ giáo bản Vọng cổ nhịp 4 từ các tiền bối của đất Bạc Liêu. Rồi từ đó ông đã viết lời mới cho bản Vọng cổ nhip 4, nhưng ông chỉ viết lời mới có 6 câu (không đủ 20 câu như bản đờn trong sach Ca nhạc cổ điển của Trịnh Thiên Tư), ông tự đặt tên bài Vọng cổ này là Tiếng nhạn kêu sương. (Chúng tôi tạm gọi lời ca là BÀI và bản đờn là BẢN để người đọc dễ phân biệt).
Bài Vọng cổ Tiếng nhạn kêu sương đã được Nhạc sĩ Truong Bỉnh Tòng xác nhận ra đời năm 1925 (Nhạc tài tử - Nhạc sân khấu Cải lương. NXB Sân Khấu – 1996). GSTS Trần Văn Khê cũng đã một lần nữa xác nhận bản Vọng cổ ra đời năm 1925 trong bài phát biều của ông trong Lễ Kỷ niệm 90 năm ra đời bản Dạ cổ hoài lang tổ chức tại Thị xã Bạc Liêu ngày 29 tháng 9 năm 2009. Bài Vọng cổ hoài lang nhịp 4 này có nội dung như sau: “Nhạn đành kêu sương nơi biển Bắc/ Én cam khóc hận dưới trời Nam/ Thảm thương Ngưu Chức phải chia lòng/ Kẻ ăn thảm, người lại nuốt sầu/ Người ra đi ruột thắt gan bào/ Kẻ ở lại tâm sầu phế đau”

Trong dân gian còn vài phiên bản cùng tên nhưng có mấy chỗ hơi khác, xin ghi lại một bài để tham khảo: “Nhạn đành kêu sương nơi biển Bắc/ Én cam khóc hận dưới trời Nam/ Thảm thương thay Ngưu Nữ chia lòng/ Kẻ ăn thảm người nuốt nồng/ Kẻ chân mây ruột tím gan bầm/ Người góc biển tâm sầu phế cang”
Tiếp theo có một số tác giả đã dùng bản Vọng cổ hoài lang áp dụng trong các kịch bản Cải lương của họ (vẫn biết Tuồng là một lọai hình nghệ thuật còn được gọi là Hát Bội, nhưng dân gian ta thường gọi kịch bản Cải lương là Tuồng Cải lương, hoặc gọi tắt là Tuồng).
Vào năm 1927, hai tác giả Trần Phong Sắc và Trương Quang Tiến đã căn cứ vào nội dung tuồng San Hậu, một vở Hát bội nổi tiếng lúc bấy giờ để viết ra một kịch bản Cải lương, mang tên Nguyệt Kiểu xuất gia. Người ta thường gọi tuồng Nguyệt Kiểu xuất gia. Theo tích xưa thời Chiến Quốc, vua Tề băng hà, hoàng hậu Tạ Ngọc Dung cùng em mình là Thái sư Tạ Thiên lăng lập mưu tiếm ngôi, chúng bắt giam thứ hậu Phàn Phụng Cơ lúc ấy dang mang thai. Thứ phi Tạ Nguyệt Kiểu là em của hoàng hậu, nhưng bà phi này rất trung, nên mới hợp mưu cúng Đỗng Kim Lăng, Khương Linh Tá, Tử Trình… để cứu Phàn Phụng Cơ. Chuyện bại lộ, Tạ Thiên lăng cùng ba người em đem quân truy bắt… Lúc nguy nan bà Nguyệt Kiểu ngâm: “Nghiệp Tề nhiều nỗi long đong. Đã lo quốc mẫu thêm phòng luông (long) nhi”. Ngâm xong bà ca tiếp 20 câu Vọng cổ hoài lang: “Lòng nầy càng chua xót/ Càm việc rũi-ro Tề-trào/ Hâug lo biết trông ngày nào/ Phổi khô gan bào/ Thảm họ Phàn/ Bước vào thâm cung/ Buồn vi thần chữa-nghén/ Lo những hồi gặp buổi khai huề/ E thấu lai ác đệ/ Lòng độc long khó dể hoàng-nam/ Mình liệu làm cứu kham vẹn toàn/ Ngỏ đáp ngãi thánh-hoàng/ Bỡi đờn-bà khó toan/ Sầu tức mình, luống ngậm ngùi than/ Khó nỗi lo mưu vẹn toàn/ Lòng dặn long thầm toan/ Vái Phật cầu Trời/ Khiến tướng trỗ tài/ Cứu nối dài giang-san”
(Trong bài ca tác giả đã viết gần trăm năm trước, có nhiều chữ không hợp với ngày nay, chúng tôi chép lại từ bản gốc, không dám tự ý sửa lại. Mong độc giả thông cảm). Tuồng Nguyêt Kiểu xuát gia có 22 bài ca, nhưng có tới bốn bài Vọng cổ hoài lang đủ thấy những thập niên đầu thế kỷ 20 người ta rất xem trọng bản ca cổ này.

Cũng trong năm 1927, hai tác giả Trần Phong Sắc và Lê Văn Tiếng đã tiếp tục biên soạn tuồng Cải lương Khương hậu thọ oan. Trong đoạn Trụ vương hạ chiếu giết Khuong hoàng hậu, Hoàng hậu đạ cất tiếng than: “Gương xưa tửu sắc cũng vấy. Hỷ kia hại Kiệt, Kỷ này phá Thương”. Ngâm xong bà cất tiếng ca bài Vọng cổ hoài lang: “Sầu là sầu cho chúa/ Yến tiệc bỏ không ngai vàng/ Đờn ca đam mê vì nàng/ Kẻ trung điêu-tang/ Giết đại-thần, hết người gián can/ Vì lòng mê tửu-sắc/ Nên bỏ chần chuộn kẻ ca xang/ Ngươn-Tiến can chém thiệt/ Bào-lạc bày Mai-Bà thành than/ Người đại thần héo gan chạnh phiền/ Tề-tưởng đã nạp quyền/ Hỡi còn mình Tỉ-Can/ Ngoài chiến-tràng một Vỏ-thành-vương/ Thiếp đã gián can một lần/ Nàng nọ còn đờn ca như xưa/ Bi-Trọng loài la, Vưu-Hồn cũng thê ma/ Đỗ chùa bỏ lùa, chắc mất nhà Thương-Thang”. Tuồng Khương hậu thọ oan cũng được tác giả sử dụng ba lần bài Vọng cổ hoài lang.
Năm 1929, hai tác giả Trần Phong sắc và Lê Văn Tiếng lại cho ra đời một tuồng Cải lương mới mang tên: Quang Công thất thũ Hạ Bì (đúng ra là Quan Công thất thủ Hạ Bì, nhưng trong bản gốc ghi vậy, chúng tôi xin phép để nguyên). Trong tuồng này có hai lần tác giả sử dụng bài Vọng cổ hoài lang. lần thứ nhất khi thành Hạ Bì bị quân Tào bao vây tứ phía, Quan Công than: “Một mình khó giữ thành trì. Thổ Sơn bị khổn, Hạ Bì phải nguy”. Than xong lại ca tiếp bài Vọng cổ hoài lang: “Chàng thừa kia từ vưng huyết chiếu/ Ký đủ tới bảy tên rồi/ Bùng ra Tháo tru năm người/ Mình đi trước từ hồi/ Tháo ra đành luôn tơi bời/ Anh cùng em thua rồi đá đào-sanh/ Còn minh lòng không tra khích/ Khia cữa thành, ngỏ giết Hầu-Đôn/ Vi theo mắc mưu binh phục/ Không thế về, bởi sút ngàn lên/ Vi quân hàng, khấy kinh dưng thành/ Minh khôn giỉa đã đành/ Chắc ta là phiền tới anh/ E lấy thành chị khốn và hai/ Thời ta hết câu kèo nài/ Trách em bất tài chị dâu khốn thay/ Vì vậy phá vây xông hoài/ Tên bắn lợp khôn bề chạy qua/ Tàn canh phía đông trời lòa/ Kéo binh đánh nà, giải vây lưới ra”.
Như vậy, ta có thể tạm kết luận: Về bản đờn chí có ông Cao Văn Lầu viết đủ 20 câu nhịp Vọng cổ 4 đã in trong sách Ca nhạc cổ điển của Soạn giả Trịnh Thiên Tư ngoài ra không thấy có tài liệu nào khác. Nếu nói về lời ca thì phải kể bài Tiếng nhạn kêu sương của ông Huỳnh Thủ Trung ra đời năm 1925, nhưng bài này chỉ có 6 câu. Nếu muốn nói bài Vọng cổ hoài lang đầu tiên đủ 20 câu thì chỉ có bài Vọng cổ hoài lang trong tuồng Nguyệt Kiểu xuất gia của Trần Phong Sắc và Trương Quang Tiến viết năm 1927. Trong Nhạc tài tử, muốn sáng tác lời ca cho bản nào, tác giả đều phải căn cứ vào lồng bản của bản đó để viết lời. Bản Vọng cổ hoài lang cũng thế, tác giả phải căn cứ vào lồng bản Vọng cổ nhip 4 của ông Cao Văn Lầu để viết ra lời mới.
Chú Thích:
(1) Từ Dạ cổ hoài lang – 1992, trang 84