Trong bối cảnh mới, khi quan hệ Việt Nam – Nhật Bản nâng cấp Đối tác chiến lược toàn diện, câu chuyện “Thương hiệu Nhật Bản” trong bài viết này tuy chưa công bố được những số liệu nghiên cứu cụ thể về các nhãn hiệu, thương hiệu các sản phẩm gia dụng, điện tử Nhật Bản… trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam, nhưng với chia sẻ ban đầu trên, cũng như hiệu ứng từ các chương trình của các nhãn hiệu, thương hiệu Nhật Bản đem lại. Chúng tôi xin được gợi mở giới thiệu một “mảnh đất màu mỡ” cho giới nghiên cứu và bày tỏ mong muốn trong tương lai sẽ có một nghiên cứu cụ thể hơn đánh giá một cách chính thức và toàn diện “Thương hiệu Nhật Bản” trong đời sống của người Việt Nam.
Điều kỳ diệu làm nên “Thương hiệu Nhật Bản”
Mặc dù bước vào thời kỳ hiện đại hóa sau các nước Tây Âu và Mỹ một thời gian dài, nhưng Nhật Bản đã nhanh chóng rút ngắn sự cách biệt bởi sự tiếp thu sáng tạo, có chọn lọc tri thức khoa học, kỹ thuật và kinh nghiệm, các giá trị văn hóa của các nước phát triển. Chính quyền Minh Trị gửi nhiều đoàn sứ giả tới Châu Âu và Mỹ học hỏi, tiếp thu tri thức của các nước tiên tiến nhất, xuất sắc nhất. Đồng thời tiến hành nhập khẩu máy móc và kỹ thuật phương Tây, mời các chuyên gia nước ngoài đến Nhật Bản làm việc và trả lương cao với mục đích khai thác tri thức, văn minh của loài người từ những nước phát triển.
Ảnh minh họa, nguồn Internet
Cùng với hoạt động này, hàng ngàn sinh viên Nhật Bản được cử ra nước ngoài học tập và tiếp thu kiến thức cần tiết cho công nghiệp hóa đất nước. Chính phủ Nhật Bản đã có nhiều biện pháp mạnh mẽ, mang tính đột phá trong đào tạo kỹ thuật như mua các mẫu hàng và máy móc nước ngoài về làm mô hình cho các nhà sản xuất trong nước cách nay gần 150 năm. “Theo thống kê, năm 1875, số người nước ngoài phục vụ trong các cơ quan chính phủ trung ương và địa phương đã đạt tới mức kỷ lục là 527 người, trong đó có 205 người là cố vấn kỹ thuật, 144 người là thầy giáo, 69 người là nhà quản lý và hành chính và 36 người là thợ lành nghề. Lương của những người này được trả cao ngang với bộ trưởng chính phủ…”[1]. Đây chính là tiền đề cho những chính sách phục hổi và phát triển kinh tế sau chiến tranh thế giới thứ 2 của Nhật Bản.
Bên cạnh đó, còn có những chính sách khuyến khích các doanh nghiệp trong nước chủ động tìm kiếm và làm chủ khoa học kỹ thuật hiện đại. Do vậy, sau 20 năm kể từ khi chiến tranh Thế giới thứ 2 kết thúc, nước Nhật đã trở nước phát triển nhảy vọt, đến đầu những năm 70 của thế kỷ XX, Nhật Bản đã đạt trình độ cao về tự động hóa, về trình độ sử dụng máy tính điện tử trong một số ngành. So với thời kỳ trước chiến tranh, ngoài việc tạo điều kiện dành cho việc thực hiện cách mạng khoa học kỹ thuật, chính quyền còn sự tập trung vốn cao hơn, nhiều hơn vào khu vực sản xuất lớn, vào các ngành then chốt và các ngành công nghiệp mới; Sự tăng cường đầu từ vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học của nhà nước cũng như của các tổ chức độc quyền sau chiến tranh là nhân tố quan trọng giúp Nhật Bản nhanh chóng thoát khỏi tình trạng lạc hậu về kỹ thuật.
Ảnh minh họa, nguồn Internet
Chi phí nghiên cứu phát triển ở Nhật Bản năm 1955 mới chỉ đạt 40,1 tỷ yên (0.84% thu nhập quốc dân), nhưng đã tăng lên một cách vững chắc, đạt gần 1.200 tỷ yên (1.96% thu nhập quốc dân) năm 1970, tăng gần 30 lần trong 15 năm. Năm 1955 chỉ có 1.445 phòng thí nghiệm tham gia nghiên cứu khoa học và kỹ thuật (640 của các công ty, 279 của các trường đại học, 526 phòng thí nghiệm quốc gia); năm 1970 số phòng thí nghiệm đã tăng lên 12.594, gấp 9 lần trong 15 năm. Số phòng thí nghiệp tiếp tục tăng nhanh, đạt 19.618 vào năm 1985, trong đó số phòng thí nghiệm tư nhân tăng mạnh nhất (18.058 của các công ty, 633 của các trường đại học, 927 phòng thí nghiệm quốc gia. Số các nhà khoa học và chuyên gia tham gia nghiên cứu cũng tăng lên đáng kể, từ 133.000 người năm 1955 lên 419.000 người năm 1970, 673.000 người năm 1985.[2]Những số liệu này đã minh chứng thuyết phục vì sao Nhật Bản đã trở thành cường quốc về kinh tế thứ 2 chỉ sau sau Mỹ.
Cho đến nay, Nhật Bản vẫn là một trong những quốc gia đứng đầu về khoa học kỹ thuật và công nghệ. Công nghệ 4.0 và trí tuệ nhân tạo hiện đang được Nhật Bản ứng dụng một cách hiệu quả trong các ngành công nghệ cao. Với chính sách toàn cầu hóa các ngành công nghiệp, Nhật Bản hợp tác sản xuất các sản phẩm mang thương hiệu Nhật trên khắp thế giới. Từ các sản phẩm công nghiệp chế tạo máy như xe máy, xe hơi: Honda, Toyota, Misubishi, Yamaha… đến các sản phẩm gia dụng: điện tử, tivi, máy tính mang thương hiệu Nhật đều có mặt khắp nơi trên trên thế giới: Hitachi, Shap, Motorola, Nokia, Toshiba, Sony…
Điểm khác biệt của các thương hiệu Nhật Bản ở các sản phẩm từ xe 2 bánh, 4 bánh đến các sản phẩm điện tử gia dụng... đều là những sản phẩm được làm ra từ những doanh nghiệp lấy văn hóa làm nền tảng. Có thể nói, văn hóa doanh nghiệp Nhật Bản đã được xác lập và đi tiên phong phát triển tạo nên sức mạnh Nhật Bản ở ý chí cần cù, chịu khó và tinh thần kỷ luật lao động sáng tạo của các chủ doanh nghiệp, công nhân Nhật Bản. Điều đó đã giúp Nhật Bản trở thành một siêu cường kinh tế và khoa học kỹ thuật hiện đại phát triển song hành với văn hóa doanh nghiệp.
“Thương hiệu Nhật Bản” trong đời sống văn hóa tinh thần người Việt Nam
Từ thế kỷ thứ VIII, quan hệ Nhật Bản – Việt Nam đã được hình thành thông qua giao lưu Phật giáo. Âm nhạc Lâm Ấp được biết đến bởi Nhà sư Phật Triết – Âm nhạc Lâm Ấp ở một góc độ nào đó gần như đồng điệu với thanh âm của Nhã nhạc cung đình Huế. Đến thế kỷ thứ XVII, nhiều thương thuyền Nhật Bản đã cập cảng Hội An, thời điểm này giao thương, buôn bán giữa người Nhật và người Việt đã phát triển với khu phố người Nhật đầu tiên được lập ra tại Hội An.
Ảnh minh họa, nguồn Internet
Khép lại quá khứ thời chiến tranh, hướng tới hòa bình, phát triển, trước mắt là hàn gắn vết thương chến tranh, Việt Nam – Nhật Bản đã chính thức nối lại mối quan hệ hợp tác vào tháng 9/1973. Kể từ đó mối quan hệ Việt Nam ngày càng gắn bó với những mô hình, địa phương, tổ chức tiêu biểu được xem là hình mẫu như tỉnh Bến Tre với các chương trình nhân đạo, chăm sóc sức khỏe, giáo dục thấm đượm tình hữu nghị và làm sâu sắc các giá trị văn hóa, giao lưu học thuật Việt Nam - Nhật Bản in đậm dấu ấn ĐH Osaka (có GS. Shimizu Masaaki), Hội Trợ giúp trẻ em Việt Nam Nhật Bản (của Bà Akemi Bando...), Dự án Seed to Table hoạt động phát triển nông nghiệp sạch, hữu cơ, giáo dục và hướng nghiệp khởi nghiệp của chị Ino Mayu...
Việt Nam là nước đầu tiên trên thế giới chính thức đưa tiếng Nhật vào giảng dạy ở bậc trung học cơ sở từ năm 2003, tiểu học từ năm 2019. Nhật Bản là một trong những nước viện trợ lớn nhất cho ngành giáo dục - đào tạo của Việt Nam thông qua các chương trình viện trợ ODA. Nhật Bản đã hỗ trợ nâng cấp 4 trường đại học của Việt Nam đạt đại học chất lượng cao; hiện đang tiếp tục hợp tác xây dựng Trường Đại học Việt - Nhật nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho Việt Nam trong lĩnh vực khoa học công nghệ, quản lý và dịch vụ.
Hơn bao giờ hết, ngày nay, quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản đang phát triển tích cực, quan hệ hợp tác diễn ra trên khác các lĩnh vực một cách mạnh mẽ, độ tin cậy chính trị cao, thực sự là “đối tác chiến lược và toàn diện” từ kinh tế, thương mại, đầu tư, quốc phòng – an ninh, văn hóa – giáo dục, nông nghiệp, y tế, lao động, giao lưu nhân dân, hợp tác cấp địa phương và trường Đại học... Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, hai nước đang đẩy mạnh hợp tác trên các lĩnh vực mới như đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, năng lượng, ứng phó biến đổi khí hậu... Đặc biệt hợp tác địa phương, giao lưu văn hóa, giao lưu nhân dân có nhiều tiến triển tích cực. Đây là cơ sở để Nhật Bản trở thành nhà cung cấp ODA lớn nhất cho Việt Nam (khoảng 30 tỷ USD), đối tác hợp tác lao động thứ 2, du lịch và đầu tư thứ 3 và thương mại thứ 4[3] của Việt Nam.
Từ mối quan hệ hợp tác giữa hai chính phủ đã đem lại những lợi ích nhất định cho nhân dân 2 nước. Hiện có trên 500 nghìn người Việt Nam đang sinh sống tại Nhật Bản và gần 23 nghìn người Nhật Bản đang sinh sống tại Việt Nam[4]. Nhiều sản phẩm gia dụng (tivi, tủ lạnh, nồi cơm điện, quạt máy, máy lạnh, bàn ủi, điện thoại di động, máy ép, máy say, xe máy, xe điện, …) thương hiệu Nhật dần đi vào cuộc sống của người dân Việt Nam: Sony, Philip, Toshiba, Nokia, Dakin… Có thương hiệu được “Việt hóa” trở thành lời nói sử dụng phổ biến trong giao tiếp hàng ngày của người Việt: “nét như Sony”; và có nhãn hiệu được xem là tên gọi của sản phẩn như xe máy thì người Việt gọi luôn là xe honda. Người Việt rất tin tưởng và luôn đặt niềm tin vào các sản phẩm có nhãn hiệu từ Nhật Bản. Tuy nhóm tác giả chưa có số liệu điều tra cụ thể về người Việt Nam dùng sản phẩm Nhật, nhưng theo khảo cứu sơ bộ của chúng tôi, ít nhất trong mỗi gia đình người Việt đều có 1 hoặc 2 sản phẩm thương hiệu Nhật như chiếc bàn ủi, cái quạt máy, nồi cơm điện, xe máy... mang nhãn hiệu từ xứ sở hoa Anh Đào. Cho đến nay, nhiều nhà máy sản xuất của Nhật Bản đã đặt tại Việt Nam, với chất lượng và giá cả tốt hơn, nên người Việt càng tin tưởng hơn vào sản phẩm mang nhãn hiệu từ Nhật.
Ảnh minh họa, nguồn Internet
Từ tiện ích, sử dụng sản phẩm hàng hóa “Thương hiệu Nhật Bản” ở Việt Nam đã giúp các nhà sản xuất Nhật Bản thành công tại một đất nước có nhiều điểm tương đồng văn hóa với mình, Đây là nền tảng của quá trình đầu tư và hợp tác sản xuất của các hãng Toyota, Honda, Yamaha… ACE Cook, Công ty MGA, Công ty TNHH DDK… Nhiều nhãn hiệu, sản phẩm đi vào đời sống hàng ngày của người Việt: mỳ ăn liền ACE cook, nước tương Chinsu, bột ngọt Ajnomoto… Có thể thấy, trong cuộc sống thường nhật của người Việt là chuỗi gắn bó với các nhãn hiệu từ Nhật Bản, tất cả đã tạo nên những động lực hữu hình và vô hình thúc đẩy quá trình hợp tác giữa Nhật Bản – Việt Nam dựa trên các giá trị nền tảng là văn hóa.
[1] Lê Văn Sang, Lưu Ngọc Trịnh (1991), Nhật Bản đường đi tới một siêu cường kinh tế, NXB. Khọa học xã hội, tr. 48.
[2] Lê Văn Sang, Lưu Ngọc Trịnh (1991), Tlđd, tr. 158.