NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG

Đăng lúc: 2025-02-26 09:30:00 | Bởi: admin | Lượt xem: 142 | Chuyên mục: Tinh hoa nghề Việt

Gia đình luôn gợi lên trong mỗi người những cảm giác thân thuộc và thiêng liêng, không chỉ là cái nôi sinh thành, nuôi nấng mỗi con người mà còn là môi trường xã hội hóa đầu tiên và gắn bó lâu dài nhất trong suốt cuộc đời con người. Khi sinh ra, con người sống trong gia đình với ông bà, cha mẹ, anh chị em. Lớn lên, xây dựng gia đình riêng, họ sống với vợ chồng, con cái. Và khi đến tuổi xế chiều lại quây quần, xum họp với con cháu. Trong suốt quá trình phát triển xã hội, cùng với bao sự thăng trầm của lịch sử, gia đình vẫn luôn có chức năng, vai trò và ý nghĩa to lớn đối với mỗi cá nhân. Đặc biệt, đối với xã hội Việt Nam, nơi ghi dấu đậm nét những đặc trưng của xã hội, con người  phương Đông – xã hội duy tình thì con người luôn coi trọng tình cảm, nhất là những tình cảm gia đình.

Trong xã hội truyền thống, gia đình tồn tại như một đơn vị kinh tế độc lập, tự sản tự tiêu trong mối quan hệ với làng xã và nhà nước. Chính sự khắc nghiệt, khó khăn của điều kiện tự nhiên, lao động sản xuất, tâm lý làng xã ăn sâu vào mối quan hệ giữa gia đình với họ tộc, xóm làng và nó tạo nên sự gắn cố kết, gắn bó bền vững giữa gia đình với họ tộc, làng nước và từ tình yêu gia đình, người Việt đã mở rộng ra thành tình yêu làng xóm và yêu quê hương đất nước. Đấy chính là một trong những nét đặc trưng trong hệ giá trị của gia đình Việt Nam truyền thống.

Những hệ giá trị trong quan hệ gia đình

Trong quan hệ thế hệ (giữa cha mẹ và con cái), cùng với chữ Trung, chữ Hiếu cũng là một trong những điều được Nho giáo chú trọng và đề cao nhất và ảnh hưởng rất lớn tới mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia đình Việt Nam truyền thống.

 
Anh1
Ảnh tư liệu

Chữ Hiếu trong Nho giáo tuy xếp sau chữ Trung nhưng theo quan niệm Nho giáo để đạt được chữ Trung thì con người ta trước hết phải biết giữ chữ Hiếu, và nếu con người ta bất hiếu thì có thể cũng dễ dàng đi tới bất trung, bất nhân. Vì thế, trong Hiếu kinh, Khổng Tử đã chỉ rõ rằng: Hành vi của người ta thì không gì lớn bằng chữ hiếu (Nhân chi hành mạc đại chi hiếu).
 
Ở trong gia đình Việt Nam truyền thống, ngay từ thời xa xưa, việc giáo dục chữ Hiếu đã trở thành một trong những nội dung quan trọng của việc giáo dục trong gia đình Việt Nam. Kho tàng dân gian Việt Nam cũng có rất nhiều lời vàng, ý ngọc ca ngợi công lao cha mẹ và khuyên bảo con cái phải biết giữ chữ Hiếu đối với cha mẹ mình: Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra/ Một lòng thờ mẹ kính cha/ Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con”. Hay như hình ảnh cao đẹp của nàng Kiều (Trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du) vì chữ Hiếu đã hy sinh tình yêu để bán mình, “quyết đền ba sinh”, báo đáp công ơn cha mẹ.
 
Chữ Hiếu ở đây với người Việt, không phải chỉ là con cái phải biết vâng lời cha mẹ mà còn phải phụng dưỡng cha mẹ khi về già. Nếu con cái mà không vâng lời hoặc phụng dưỡng cha mẹ thì bị ghép vào tội bất hiếu. Đặc biệt, những hành động côn đồ của con cái đối với cha mẹ đều phải bị xếp vào nhóm tội đặc biệt nguy hiểm chỉ xếp sau những tội đối với vua và với quốc gia. Quốc triều hình luật thời Lê đã có những điều luật quy định khá chặt chẽ và nghiêm khắc để thực hiện chữ Hiếu trong gia đình:
 
“Điều 38: Con cái phải chịu thay cho cha mẹ hình phạt roi và trượng;
Điều 318: Trong khi ông bà, cha mẹ bị giam cầm tù tội mà lấy cợ, lấy chồng thì đều bị xử biếm ba tư và đôi vợ chồng phải li dị. Nếu ông bà, cha mẹ cho phép thì chỉ được làm lễ thành hôn mà không được bày ra cỗ bàn ăn uống, trái luật thì xử biếm một tư;
Điều 475: Lăng mạ ông bà, cha mẹ thì phải tội lưu, đánh bị thương thì phải tội bị giảo;
Điều 504: Con cái phải che dấu tội của cha mẹ;
Điều 511: Con cái không được kiện cha mẹ  ”[1]
 
Tuy nhiên, gia đình truyền thống không chỉ có quan hệ một chiều con cái phải “hiếu đễ” với cha mẹ mà ngược lại, cha mẹ cũng luôn cần phải thương yêu, chăm sóc con cái như câu thành ngữ “cha từ, tử hiếu” để nói về một gia đình có gia phong, chuẩn mực. Tấm lòng trời biển của cha mẹ dành cho con cái cũng là một nét đẹp truyền thống của gia đình Việt Nam nói riêng và của văn hoá Việt Nam nói chung. Với điều kiện sống trong xã hội truyền thống thường rất thiếu thốn, khó khăn, cha mẹ luôn dành những điều tốt đẹp nhất cho con cái, từ miếng cơm đến manh áo. Người ta không thể quên được hình ảnh người mẹ trong ca dao truyền thống “...miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương” đã thể hiện rõ nét tình thương yêu là sự chăm sóc chu đáo ân cần của người mẹ đối với con cái. Mối quan hệ hai chiều: cha mẹ thương yêu con cái và con cái “hiếu đễ” đối với cha mẹ đã tạo dựng nên những tình cảm vô cùng tốt đẹp và hình thành nên những giá trị đáng trân trọng, quý giá trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia đình Việt Nam.
 
Trong quan hệ giữa anh chị em trong gia đình, hệ tư tưởng Nho giáo cũng rất được coi trọng xếp ở vị trí thứ hai, chỉ sau quan hệ giữa cha mẹ với con cái. Kinh thi dạy rằng: “Làm anh thì phải phận anh, làm em phải phận em. ăn ở phải phận anh em, rồi sau mới có thể dạy người trong nước” (Nghi huynh nghi đệ. Nghi huynh nghi đệ, nhi hậu khả dĩ giáo quốc dân -  Đại học, chương 9).
 
Anh2
Ảnh tư liệu
 
Đối với gia đình Việt Nam, trong quan hệ anh chị em, trước tiên mỗi người cần giữ đúng bổn phận, trách nhiệm theo tôn ti trật tự gia đình. Vị trí người anh, nhất là người con trai trưởng trong gia đình rất được đề cao. Người anh chỉ đứng sau vị trí của người cha trong gia đình và có quyền chỉ bảo các em “quyền huynh thế phụ”. Sau đó là đến quyền của anh thứ hai, thứ ba... Khi cha mẹ mất, hiển nhiên người anh phải có trách nhiệm lo lắng, chăm sóc cho các em trong gia đình. Trách nhiệm cũng như quyền hạn của người anh trai trong gia đình thể hiện rõ tính gia trưởng trong gia đình truyền thống nhưng nó cũng là yếu tố đảm bảo sự bền vững, trật tự trong gia đình Việt Nam thuở xưa.
 
Không chỉ có giữ đúng trật tự trong trong mối quan hệ anh em mà bên cạnh đó, tình cảm thương yêu, hoà thuận giữa anh chị em trong gia đình cũng được gia đình truyền thống rất coi trọng, đề cao. Người Việt thường nói rằng “Chị ngã em nâng”, “Lọt sàng xuống nia” hay còn có lối ví von rất gần gũi nhưng lại hàm chứa rất nhiều tình cảm thể hiện sự gắn bó giữa anh em trong gia đình, ví anh em như môi với răng, “Môi hở răng lạnh” hay còn ví: “Anh em như thể tay chân, rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần”.

Từ những quan niệm đó, trong giáo dục gia đình mối quan hệ anh em họ hàng ruột thịt luôn được nhấn mạnh và các cụ thường nhắc nhở con cháu là “một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Để đánh giá một gia đình nào đó người Việt cũng thường nhìn vào mối quan hệ giữa anh chị em trong gia đình. Nếu anh chị em trong gia đình ăn ở với nhau không hòa thuận thì gia đình đó không chỉ bị chê cười mà những bậc người lớn trong gia đình, như ông bà, cha mẹ, cũng bị chê trách vì dạy con chưa tốt. Chính những quan điểm đó đã khiến cho người Việt truyền thống rất chú trọng đến mối quan hệ anh em trong gia đình và điều đó đã củng cố vai trò và ý nghĩa của mối quan hệ anh em trong  gia đình Việt Nam truyền thống. 
 
Trong quan hệ vợ chồng, tư tưởng Nho giáo cho thấy quan hệ hôn nhân trong các gia đình truyền thống chủ yếu mang tính sắp đặt, ghép nối hơn là tình yêu. Quan hệ hôn nhân không phải chỉ để đáp ứng nhu cầu tình cảm của đôi trai gái mà trước hết nó đáp ứng lợi ích của gia đình, họ tộc và cả làng xã. Sự kết duyên giữa đôi trai gái chính là sự kết giao mối quan hệ giữa hai dòng họ, do đó, trong xã hội truyền thống, người ta rất coi trọng vấn đề “môn đăng hộ đối” khi kết hôn. Mặt khác, sự kết hôn giữa đôi trai gái còn có vai trò như một phương tiện kinh tế đóng góp cho làng xã bởi khi kết hôn, người ta còn phải nộp tiền cheo để đóng góp cho làng.
 
Mặc dù việc kết hôn không hoàn toàn thực sự dựa trên cơ sở tình yêu nhưng mối quan hệ vợ chồng trong gia đình Việt Nam truyền thống vẫn hiện hữu rất rõ những giá trị tốt đẹp mà cho đến nay nó vẫn được ca ngợi và được trân trọng, đó chính là sự hoà thuận và tình nghĩa thuỷ chung của vợ chồng ngay cả khi gia đình nghèo khó hay gặp hoàn cảnh hoạn nạn, khó khăn. Sự hoà thuận, thuỷ chung trong gia đình truyền thống được hình thành và củng cố phần lớn do sự ảnh hưởng của các tư tưởng văn hoá.  
 
Dưới ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo với nét nổi bật là tư tưởng gia trưởng phụ quyền, “trọng nam, khinh nữ”, vị trí, vai trò, bổn phận và nghĩa vụ của người vợ, người chồng trong gia đình truyền thống được quy định khá rõ ràng và đòi hỏi mọi người phải tuân thủ, nhất là đối với người phụ nữ. Người phụ nữ phải tuân theo những quy định ngặt nghèo của đạo “tam tòng, tứ đức” trong Nho giáo. Trong gia đình và xã hội đưa ra nhiều điều nghiêm cấm đối với phụ nữ và nếu mắc phải, người phụ nữ bị đuổi ra khỏi nhà. Đó chính là tội “thất xuất” bao gồm không có con, dâm dật, không thờ cha mẹ chồng trọn đạo, hay lắm điều, trộm cắp, ghen tuông và có ác tật. Vì thế trong  gia đình, người phụ nữ không chỉ có trách nhiệm phục vụ chồng mà còn phụng dưỡng cả cha mẹ chồng, chăm sóc con cái. Ngược lại, người chồng cũng phải biết thương yêu, quý trọng vợ song người chồng vẫn có thể lấy nhiều vợ, tới “năm thê, bảy thiếp”, trong khi đó, người phụ nữ phải đề cao hai chữ tiết hạnh và chỉ có thể lấy một chồng.
 
Mặc dù có vị trí thấp kém hơn so với nam giới nhưng so với các nước phương Đông cũng chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo thì địa vị của người phụ nữ trong gia đình Việt Nam truyền thống vẫn cao hơn rất nhiều bởi người Việt Nam có truyền thống tôn trọng phụ nữ. Tiêu biểu cho truyền thống này chính là sự tôn vinh người phụ nữ qua phong tục thờ mẫu của người Việt Nam. Tất cả những điều đó đã giảm bớt sức ép và những quy định ngặt nghèo trong Nho giáo, tạo nên sự gần gũi giữa vợ chồng và sự êm ấm trong gia đình truyền thống của người Việt.

Điều được coi trọng trong mối quan hệ vợ chồng có lẽ phải kể đến trước tiên chính là sự hoà thuận. Điều này được thể hiện rất rõ trong kho tàng văn hoá dân gian phản ánh đời sống của người dân nước Nam. Từ xa xưa cha ông ta đã nói “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn” để coi trọng và đề cao sự hoàn thuận giữa vợ chồng. Sự hoà thuận đó giúp cho vợ chồng cùng nhau vượt qua những khó khăn trong cuộc sống như trong lao động, sản xuất, trong việc nuôi dạy con cái. Người dân dưới xã hội phong kiến tuy thường phải sống trong cảnh nghèo khó nhưng chính sự nghèo khó đó lại như một bức nền làm nổi bật, tô điểm thêm vẻ đẹp cho mối quan hệ vợ–chồng trong gia đình tuyền thống:
 
“Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”

hay:
 
Chồng ta áo rách ta thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người”.
 
Bên cạnh những mối quan hệ bên trong gia đình, gia đình Việt Nam có truyền thống là luôn gắn bó với làng xóm, quê hương đất nước, đó chính là yếu tố góp phần hình thành nên sức mạnh đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Tiêu biểu cho sức mạnh của tình đoàn kết, gắn bó giữa gia đình với làng xã, quê hương đất nước chính là hình ảnh Thánh Gióng được dân làng đoàn kết góp gạo nuôi ăn để đi đánh giặc Ân trong truyền thuyết Thánh Gióng của Việt Nam.
 
Sự gắn bó giữa gia đình với làng xóm, quê hương đất nước được tạo dựng dựa trên nền tảng của nền sản xuất tiểu nông, trên cách thức tổ chức quản lý của làng xã Việt Nam truyền thống và trên hoàn cảnh thường xuyên phải đấu tranh với ngoại xâm, thuỷ tặc của người Việt. Trục ba nhà - làng - nước được hình thành và củng cố khá lâu đời, bền vững trong xã hội truyền thống. Chính hoàn cảnh lịch sử, điều kiện sản xuất và cách thức tổ chức đó nên lợi ích của gia đình Việt Nam truyền thống gắn bó chặt chẽ với lợi ích của cộng đồng làng xã. Bên cạnh đó, yếu tố dòng họ cũng tác động đáng kể trong việc kết nối mối quan hệ gắn bó giữa gia đình với cộng đồng làng xã Việt Nam truyền thống.
Anh3
Ảnh tư liệu
 
Trong xã hội truyền thống, làng Việt thường được hình thành trên cơ sở hai, ba dòng họ, thậm chí, có những làng được hình thành từ một dòng họ và tên làng cũng là tên của dòng họ đó như Đào Xá, Dương Xá, Lưu Xá... Và ở làng xã, khi nhắc tới cá nhân, người ta cũng thường liên người đó với gia đình, họ tộc và với truyền thống của các gia đình, họ tộc đó để đánh giá mỗi cá nhân.
 
Gia đình Việt Nam truyền thống không chỉ thờ cúng tổ tiên, ông bà mình mà còn thờ cả thành Hoàng làng, các vị thần của làng thông qua các hoạt động lễ hội, tín ngưỡng tập thể (thường diễn ra ở đình làng). Các gia đình không chỉ tham gia các hoạt động văn hoá chung với nhau mà còn chia sẻ với nhau những giá trị của riêng làng xã, cộng đồng mình và tuân theo những phong tục, tập quán của làng xã. Điều đó đã củng cố mối quan hệ gắn kết giữa gia đình với dòng họ và cộng đồng làng xã. Mỗi người không chỉ giữ gìn và tự hào về những truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ mà của cả làng xã. Ở trong làng, khi gia đình nào có việc vui, buồn, tang ma, hiếu hỉ đều được mọi người xung quanh, không ai bảo ai, cùng đến chia sẻ giúp đỡ. Người Việt Nam ta có câu ca dao để nhắc nhở, khuyên răn, dạy bảo con người ta ý thức và tinh thần đoàn kết, tương trợ với mọi người trong cộng đồng cũng như trong đất nước:
 
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
 
Chính do sự gắn kết giữa gia đình và cộng đồng làng xã, quê hương đất nước nên gia đình Việt Nam truyền thống là một trong những nơi bảo lưu tốt nhất những giá trị văn hoá của cộng đồng và dân tộc.

Việc thực hiện các chức năng gia đình
 
Đối với chức năng kinh tế, do nền kinh tế của xã hội truyền thống là nền kinh tế tiểu nông mang tính tự cấp tự túc nên gia đình Việt Nam truyền thống tồn tại như một đơn vị sản xuất kinh tế độc lập. Hoạt động kinh tế của gia đình liên quan tới làng xã chủ yếu qua các hoạt động thuỷ lợi, tưới tiêu nước vào đồng ruộng và đóng thuế cho làng. Chức năng kinh tế của gia đình truyền thống khá quan trọng bởi nó trực tiếp đáp ứng nhu cầu của các thành viên trong gia đình và duy trì sự tồn tại, phát triển của gia đình.
 
Trong gia đình truyền thống, vai trò của người đứng đầu gia đình rất được coi trọng. Người đó thường là người cha, sau đó là người anh cả trong gia đình. Họ quản lý, tổ chức và điều hành các công việc sản xuất chính của gia đình và đồng thời cũng “đứng mũi chịu sào” trong mọi công việc. Bên cạnh đó, người vợ và các thành viên khác trong gia đình cũng chung tay cày cấy, sản xuất để đảm bảo kinh tế cho gia đình. Hình ảnh lý tưởng trong hoạt động sản xuất của gia đình Việt Nam truyền thống là:
 
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”.
 
Do tính chất của hoạt động kinh tế đó đã củng cố sự tồn tại của chế độ gia trưởng song nó cũng tạo nên sự gắn bó từ trong lao động giữa các thành viên của gia đình Việt Nam truyền thống   
 
Đối với chức năng giáo dục, câu nói của người xưa: “dạy con từ thuở còn thơ” đã cho thấy sự coi trọng việc giáo dục trong gia đình của người Việt. Trong nhiều gia đình, việc giáo dục được thực hiện khá chặt chẽ thông qua “gia pháp”, “gia quy” của gia đình. Trong giáo dục gia đình, tấm gương về đạo đức, lối sống của những người lớn, những người có quyền trong gia đình có ý nghĩa rất lớn và làm gương chính là một trong những biện pháp giáo dục hữu hiệu trong gia đình truyền thống.
 
Về mặt nội dung giáo dục, gia đình Việt Nam truyền thống giáo dục con cái chủ yếu dựa trên những quan điểm của hệ tư tưởng Nho giáo song nó cũng có những sự khác biệt trong mỗi kiểu gia đình Việt Nam. Gia đình truyền thống có hai loại chủ yếu, đó là gia đình kiểu nhà Nho và gia đình nhà nông. Do đó, bên cạnh việc giáo dục đạo đức, giáo dục truyền thống của gia đình, họ tộc, giáo dục phong tục tập quán của làng xã nói chung, gia đình nhà Nho thường hướng tới việc giáo dục để con cái lớn lên sẽ ra làm quan, còn gia đình nhà nông lại chú trọng tới việc giáo dục những kinh nghiệm, kỹ năng trong lao động sản xuất để lớn lên, con cái có thể lao động tốt, phát triển kinh tế cho gia đình. 
 
Sự giáo dục trong gia đình truyền thống chủ yếu dựa trên tình cảm và giáo dục thông qua các thế hệ: ông bà, cha mẹ giáo dục con cháu, anh chị chỉ bảo cho các em, trong đó, sự giáo dục của cha mẹ là rất quan trọng. Người cha thường giáo dục bằng sự nghiêm khắc, người mẹ thường giáo dục bằng sự nhân từ. Cha giáo dục cho con trai cách làm ăn, quản lý gia đình, cách quan hệ với họ tộc, làng xã, còn mẹ thì giáo dục cho con gái những kiến thức về về sinh, nữ công, các cách quan hệ, đạo đức khi về nhà chồng. Cũng chính nhờ sự giáo dục đó mà các giá trị tốt đẹp trong mối quan hệ vợ- chồng, cha mẹ –con cái, giữa anh chị em, giữa gia đình và cộng đồng làng xã, quê hương đất nước được bảo lưu, truyền dạy từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo nên sự ổn định, bền vững của gia đình Việt Nam cũng như của các giá trị trong gia đình truyền thống Việt Nam.
 
Anh4
Ảnh tư liệu

 
Chức năng nuôi dưỡng, tình cảm trong gia đình truyền thống được thực hiện khá tốt bởi gia đình truyền thống luôn đề cao vai trò của các giá trị đạo đức và các giá trị đó chi phối hầu hết các mối quan hệ của gia đình như mối quan hệ giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái, giữa anh chị em và giữa gia đình với cộng đồng làng xã.
 
Chức năng nuôi dưỡng tình cảm thể hiện rõ qua sự thương yêu, chăm sóc con cái hết lòng của cha mẹ đối với con cái, sự hiếu thảo của con cái với cha mẹ; sự gắn bó và yêu thương nhau giữa anh chị em, sự thuỷ chung, hoà thuận trong tình nghĩa vợ chồng. Điều đó khiến cho gia đình trở thành thứ quan trọng nhất, thiêng liêng nhất đối với mỗi con người bởi đó không chỉ đơn thuần là nơi sinh ra và lớn lên của mỗi cá nhân mà còn là nơi đem lại cho mỗi cá nhân những tình cảm thương yêu, tạo cho mỗi người có thêm sức mạnh cổ vũ, động viên con người ta có thể vượt qua những khăn khăn, thử thách trong cuộc sống, phấn đấu để cho gia đình luôn ổn định và nền kinh tế gia đình luôn phát triển. Và chính điều đó lại đóng góp to lớn vào sự phát triển chung của toàn xã hội.    
        
Một vài lời kết
 
Ngày nay, gia đình không chỉ chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng văn hoá phương Đông, còn chịu ảnh hưởng của cả văn hoá phương Tây, những tác động của sự phát triển kinh tế - xã hội hiện đại. Cùng với giá trị về bình đẳng giới, vị trí của người phụ nữ đã được cải thiện đáng kể trong các mối quan hệ gia đình, sự tự do và bình đẳng giữa các thành viên gia đình cũng được tăng lên. Các thành viên trong gia đình giờ đây có sự gần gũi, thoải mái hơn trong việc chia sẻ tâm tư, tình cảm với nhau. Thậm chí, sự giáo dục trong gia đình không nhất thiết là giáo dục một chiều giữa cha mẹ với con cái, giữa anh chị với em mà con cái cũng có quyền nói lên những quan điểm, suy nghĩ riêng của mình đối với cha mẹ, em cũng có quyền góp ý với anh chị...
        
Tuy nhiên, mặt trái của kinh tế thị trường và sự phát triển cũng có tác động tiêu cực không nhỏ tới các giá trị truyền thống của gia đình người Việt. Khi đồng tiền chiếm vị trí quan trọng, ảnh hưởng, chi phối các mối quan hệ gia đình dẫn tới tình trạng nhiều giá trị truyền thống không còn được đề cao, thậm chí bị cho là không phù hợp trong không ít gia đình. Con người có xu hướng sống vị kỷ, nghĩ tới lợi ích cá nhân nhiều hơn là lợi ích của người thân, gia đình và của cộng đồng.
        
Bên cạnh đó, khi con người ngày càng bận rộn hơn cho các hoạt động kinh tế, khẳng định vị thế cá nhân, nên chức năng giáo dục trong gia đình cũng bị xao lãng. Có nhiều gia đình giao phó chức năng giáo dục cho nhà trường và xã hội, không quan tâm tới con cái. Các giá trị tốt đẹp vốn có trong gia đình truyền thống Việt Nam không được thế hệ trước truyền dạy, giáo dục cho các thế hệ sau. Mặt khác, nhiều bậc phụ huynh không coi trọng việc trở thành những tấm gương tốt về đạo đức, lối sống cho con cháu vâng theo.

Trải qua quá trình phát triển chung của gia đình và xã hội, những giá trị của gia đình Việt Nam truyền thống cho tới nay đã có những biến đổi nhất định song nó vẫn là nét đẹp trong trong truyền thống văn hoá của người Việt Nam và có thể nói, hệ giá trị gia đình chính là bộ phận cơ bản hình thành nên bản sắc các giá trị văn hoá truyền thống cuả dân tộc. Bởi vậy, cùng với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc thì tiếp thu và kế thừa những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống Việt Nam cũng là điều rất cần thiết và có ý nghĩa.
 
Sự bảo lưu các giá trị truyền thống trong gia đình ở đây không có nghĩa rằng gia đình chống lại những sự thay đổi. Sự bảo lưu phải là sự bảo lưu một cách tích cực, vừa giữ lại được những tinh hoa của giá trị gia đình truyền thống vừa phải biết bổ sung thêm những giá trị tích cực của thời đại mới để cho hệ giá trị của gia đình truyền thống không bị lạc hậu trong xã hội hiện đại. Ở đây, cần khách quan nhìn nhận rằng sự thay đổi của các chuẩn mực và giá trị không phải là đi ngược lại bản chất tốt đẹp của gia đình truyền thống mà nó được coi như một cách thức để gia đình tồn tại và vận hành. Chính vì vậy, việc tiếp thu và kế thừa một cách chọn lọc, tích cực và chủ động các giá trị của gia đình truyền thống sẽ đóp góp đáng kể vào việc củng cố sự gắn bó của các mối quan hệ trong gia đình và sự ổn định của gia đình Việt Nam. Và đến lượt mình, sự định vị của gia đình chính là nền tảng quan trọng củng cố sự ổn định và thúc đẩy sự phát triển của toàn xã hội.
 

[1] Viện sử học (2017), Quốc triều hình luật, NXB. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội

Theo doithoaiphattrien.vn