GIÁ TRỊ CÁC DI TÍCH TRONG KHU VỰC DI SẢN VĂN HÓA VÀ THIÊN NHIÊN THẾ GIỚI QUẦN THỂ DANH THẮNG TRÀNG AN

Đăng lúc: 2025-12-16 08:44:00 | Bởi: admin | Lượt xem: 4 | Chuyên mục: Di tích thắng cảnh

Hệ thống di tích trong Quần thể danh thắng Tràng An tạo thành một chỉnh thể không gian văn hóa đa tầng và đa thời kỳ, phản ánh tiến trình cư trú, thích nghi và phát triển của con người trong bối cảnh cảnh quan karst nhiệt đới. Với khoảng 300 di tích lịch sử - văn hóa, gần 30 di chỉ khảo cổ học - địa chất và khoảng 60 di sản phi vật thể có giá trị nổi bật, Tràng An là minh chứng quan trọng cho quá trình hình thành nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên ở Việt Nam và sự biến đổi văn hoá - xã hội qua hàng chục nghìn năm. Các loại hình di tích phong phú gồm đền, chùa, miếu, phủ, lăng, hành cung, phế tích kiến trúc kinh đô Hoa Lư; hệ thống hang động cư trú tiền sử; các địa điểm thực hành tín ngưỡng - tâm linh; cùng các cấu trúc địa mạo - địa chất đặc trưng. Sự phân bố đan xen giữa di tích tự nhiên và di tích văn hóa tạo nên “bảo tàng ngoài trời” về lịch sử tự nhiên và lịch sử loài người, làm nên giá trị nổi bật toàn cầu của di sản hỗn hợp Tràng An.

1. Giá trị lịch sử - văn hóa của hệ thống di tích

Trong khu vực di sản thế giới Tràng An có khoảng 300 di tích lịch sử - văn hoá. Trong đó, có 59 di tích đã được xếp hạng các cấp, gồm: 02 di tích cấp quốc gia đặc biệt, 21 di tích cấp quốc gia và 36 di tích cấp tỉnh. Sự phong phú về số lượng và đa dạng về cấp độ của hệ thống di tích đã phản ánh rõ tầm vóc lịch sử và giá trị văn hóa vượt thời gian của vùng đất cổ Tràng An. Trong đó, Cố đô Hoa Lư được ghi nhận là kinh đô đầu tiên của nhà nước phong kiến trung ương tập quyền ở Việt Nam, là nơi hình thành nên nhiều giá trị văn hoá - tôn giáo - dân gian, tín ngưỡng cổ; là nơi khởi nguồn nhiều truyền thống văn hoá, lễ hội, tín ngưỡng, phong tục cổ - mang đậm bản sắc Việt; Hành cung Vũ Lâm từng là căn cứ chính, trung tâm chỉ huy quân sự và chính quyền của triều đại Nhà Trần trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông ‑ Nguyên thế kỷ XIII. Tất cả đã tạo nên một không gian văn hoá và tín ngưỡng mang bản sắc đặc trưng, riêng có của cộng đồng địa phương.

- Cố đô Hoa Lư: Khu vực Cố đô Hoa Lư hiện có 13 di tích cấp quốc gia, 10 di tích cấp tỉnh và 42 di tích chưa xếp hạng, được ghi nhận là trung tâm cấu trúc văn hóa của Di sản Tràng An, đóng vai trò kinh đô của nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên, gắn với các triều đại Đinh - Tiền Lê - khởi đầu triều Lý. Hệ thống thành nội - thành ngoại, đền thờ vua Đinh - vua Lê, Chùa Nhất Trụ và mạng lưới miếu, phủ cùng các phế tích kiến trúc phân bố trong lòng các thung lũng karst cho thấy cấu trúc phòng thủ “núi là thành, sông là hào” độc đáo. Đây là mô hình kinh đô karst hiếm có, kết hợp hài hòa giữa địa hình tự nhiên và quy hoạch kiến trúc cổ. Các di tích tôn giáo - tín ngưỡng tại Chùa Nhất Trụ, Phủ Chợ, Động Am Tiên… phản ánh sự giao thoa giữa Phật giáo, tín ngưỡng dân gian, tạo nên trung tâm văn hóa - tôn giáo có tầm ảnh hưởng lớn trong tiến trình hình thành bản sắc văn hoá dân tộc. Với vai trò là điểm tựa văn hóa - lịch sử, Cố đô Hoa Lư liên kết các tuyến du lịch sinh thái - văn hóa, tạo nên cấu trúc phát triển du lịch đặc trưng của toàn vùng di sản. Ngày 28/4/1962, theo Quyết định 313‑VH/VP của Bộ Văn hóa, Cố đô Hoa Lư được xếp hạng là di tích cấp quốc gia. Sau đó, ngày 10/5/2012, theo Quyết định 548/QĐ‑TTg của Thủ tướng Chính phủ, Hoa Lư được nâng cấp lên di tích quốc gia đặc biệt.
 
Ảnh tombs
Cố đô Hoa Lư - Nguồn: Internet

- Hành cung Vũ Lâm - Địa bàn quân sự, chính quyền trọng yếu của triều Trần thế kỷ XIII: Tọa lạc ở phía Nam của Quần thể danh thắng Tràng An, thuộc địa phận phường Nam Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, Hành cung Vũ Lâm từ lâu đã khẳng định vị thế là một địa bàn quân sự và chính quyền trọng yếu của triều Nhà Trần thế kỷ XIII. Với hệ thống di tích trải rộng từ Đền Thái Vi, Chùa Bích Động, Chùa và Động Bàn Long cho đến các địa danh mang tính chiến lược như “Vườn Kho”, “Tuân Cáo”, “Cống Rồng”, “Cửa Quan” … Hành cung Vũ Lâm không chỉ là nơi trú quân, tập kết lương thực, mà còn là trung tâm hoạch định, chỉ huy các chiến dịch kháng ngoại. Ở đó, núi đá vôi hiểm trở, sông ngòi uốn lượn và hang động kín đáo đã được triều đình Trần tận dụng tối đa như một hệ thống phòng thủ thiên nhiên. Ngày nay, Hành cung Vũ Lâm vẫn lưu giữ phần nào dấu tích của những năm tháng lịch sử hào hùng, từ các di tích tôn giáo, tâm linh tới dấu vết của cơ sở hậu cần và hệ thống phòng thủ, mang lại giá trị vô giá về mặt lịch sử, văn hóa và khảo cổ, đồng thời phản ánh tài năng tổ chức, chiến lược quân sự của người Việt thế kỷ XIII.
 
Giải mã phong thủy Hành cung Vũ Lâm - nơi ghi dấu ấn nhà Trần
Hành cung Vũ Lâm - Nguồn: Internet
 
- Hệ thống đền, chùa và không gian tín ngưỡng: Hệ thống đền, chùa và không gian tín ngưỡng trong khu vực Di sản Tràng An rất phong phú và đa dạng. Mạng lưới di tích tôn giáo gồm: đền, chùa, phủ, miếu được phân bố dày đặc trong vùng lõi cũng như vùng đệm, tiêu biểu như Đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng, Bái Đính, Đền Cao Sơn, Đền Trần, Đền Thái Vi, Chùa Bích Động… thể hiện một truyền thống tín ngưỡng lâu đời gắn liền với cuộc sống của cư dân vùng karst.  Những lễ hội truyền thống như Lễ hội truyền thống Cố đô Hoa Lư, Lễ hội Lễ hội Thái Vi, Lễ hội Chùa Bái Đính, Lễ hội Tràng An … và các nghi lễ nông nghiệp cổ truyền và tục thờ thần núi - thần sông không chỉ bảo tồn tín ngưỡng dân gian mà còn là minh chứng cho sự liên tục của văn hóa bản địa qua nhiều thế kỷ. Không gian tín ngưỡng tại Tràng An với sự giao hòa giữa Phật giáo, tín ngưỡng dân gian và tín ngưỡng thờ vua, thần linh đã trở thành một phần không thể tách rời trong di sản văn hóa của cả vùng. Qua các đền, chùa, lễ hội và phong tục truyền thống, cộng đồng đã khẳng định bản sắc văn hóa - tâm linh, đồng thời duy trì mối liên hệ giữa lịch sử, tự nhiên và đời sống văn hóa đương đại.
 
2. Giá trị khảo cổ học của hệ thống di tích
Trong khu vực Di sản Tràng An đến nay đã phát hiện khoảng 30 di tích khảo cổ hang động, trong đó 10 di tích đã được khai quật. Đây là nguồn tư liệu quan trọng minh chứng cho giá trị nổi bật toàn cầu của di sản, được thể hiện ở lịch sử chiếm cư và quá trình sử dụng đất, sử dụng biển của con người trước sự biến động khắc nghiệt của môi trường tự nhiên từ 30.000 năm cho đến nay, với 3 giai đoạn, gắn liền với các thời điểm: trước, trong và sau biển tiến.

Giai đoạn từ 30 đến 9 nghìn năm, khi Tràng An còn là lục địa, những người đầu tiên đến tụ cư ở Tràng An là lớp dưới địa tầng Mái đá Ông Hay, ở đó có niên đại C14 là 30.000 năm cách ngày nay (viết tắt BP). Ngoài mái đá Ông Hay, ở giai đoạn sớm này còn có cư dân Hang Trống, niên đại 24.438 năm BP, cư dân Hang Bói và lớp dưới Hang Mòi, có niên đại 12.500 năm BP. Các cộng đồng cư dân giai đoạn này đều cư trú trong các hang động hoặc mái đá, tiến hành săn bắt các loài hươu, nai, lợn, mèo, khỉ, báo, thu lượm các loài ốc núi trong các thung lũng đá vôi, đánh bắt cua, cá và các loài thủy sản trong các khu lầy trũng.

Giai đoạn từ 9 nghìn đến 4 nghìn năm, khi Tràng An trở thành biển đảo, con người vẫn cư trú hang. Tiêu biểu cho giai đoạn này là các di tích Mái đá Vàng, Mái đá Ốc, Hang Mòi (lớp trên), hang Thung Bình. Ngoài săn bắt các động vật cạn như hươu, nai, trâu, bò rừng, lợn, khỉ và tê giác ra, con người lúc này tập trung vào khai thác nguồn lợi biển như đánh bắt các loài cá, thu lượm các loài nhuyễn thể biển thuộc đới ven bờ. Các dấu tích đống rác bếp thải ra sau bữa ăn được chất thành các lớp khá dày ở địa tầng Hang Mòi và một số hang khác. Trong các loài nhuyễn thể biển khai thác ở đây có các loài ốc undata, ốc mỏ két, ốc viền vàng, ốc mít, sò huyết, vọp, ngó, ngao đầu, hàu cửa sông, hàu hà… Các loài này cho thấy, môi trường biển Tràng An lúc này thuộc đới biển nông, ven bờ đặc trương cho khí hậu nhiệt đới gió mùa. Để thích ứng với môi trường biển đảo, người cổ Tràng An đã sáng tạo ra những chiếc rìu mài mài lưỡi, rồi mài toàn thân, những con dao, dụng cụ đào xới đất từ vỏ các con hàu lớn, những đồ đựng từ vỏ vọp biển và đồ trang sức bằng vỏ ốc ngao đầu (Neritina of pulligera), ốc tiền (Cypraea) có dáng miệng rất đẹp.

Giai đoạn từ 4 nghìn năm đến nay Tràng An lại trở về lục địa. Sau 4.000 năm, nước biển rút xuống, Tràng An lộ dần hình hài như ngày nay, cư dân cổ cũng bắt đầu chuyển dần ra vùng rìa ngoài Tràng An để mưu sinh theo xu hướng nông nghiệp cố định. Cư dân thời này phát triển đến đỉnh cao kỹ thuật chế tác rìu đá, bắt đầu chế tạo và sử dụng đồ gốm kiểu gốm Đông Sơn, triển khai săn bắt các động vật nhỏ trong núi, thu lượm các loài nhuyễn thể nước lợ, hái lượm các loài rau củ ven chân núi, dần tiếp cận đồng đồng như rìu đồng, giáo đồng phát triển sản xuất, từng bước tiến vào xã hội văn minh.

Bước vào thời kỳ lịch sử, cư dân cổ Tràng An nối tiếp truyền thống cha anh, xây dựng nơi đây trở thành vùng kinh tế phát triển, làm chỗ dự vũng chắc cho cuộc khởi nghĩa của Đinh Bộ Lĩnh, tiến tới thống nhất 12 xứ quân, mở ra cho quốc gia độc lập đầu tiên sau nghìn năm Bắc thuộc. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, đặt tên nước là Đại cồ Việt, lấy Tràng An làm kinh đô Đại Việt đầu tiên. Tại đây, nhà Đinh đã cho gia cố nền móng vùng đầm lầy để xây dựng các cung điện nguy nga, dựa vào thế núi để đắp thành lũy kiên cố. Lại cho đào vét sông Sào Khê, sông Đền Vối, sông Ngô Đồng vừa tạo mạng lưới giao thông đường thủy, vừa thông với cửa biển để thoát úng vào mùa lũ lụt. Vào các thế kỷ tiếp theo, người Việt vẫn sử dụng hang động dựng chùa, đền, miếu, am làm nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của cộng đồng. Tiêu biểu là Động Hoa Sơn, Động Thiên Hương, Chùa Bích Động, Chùa Linh Cốc, Động Tiên, Động Hoa Lư, chùa hang Bái Đính, hang Đền Trần… Một loạt các con đê ngăn biển, cải tạo đồng ruộng chiêm trũng, đã làm cho Tràng An trở thành một “Hạ Long cạn” với dấu ấn mạnh mẽ của con người trong nhiều Thiên niên kỷ.

3. Vai trò của hệ thống di tích trong định hướng bảo tồn gắn với phát triển du lịch

Hệ thống di tích tại Tràng An đóng vai trò mấu chốt trong việc định hình mô hình “du lịch bền vững” cho khu di sản - không đơn thuần là sản phẩm giải trí, mà là nền tảng kết hợp “văn hóa - sinh thái - tâm linh” mang tính đặc thù. Trước hết, các di tích lịch sử, văn hoá, tôn giáo không chỉ tạo nên bản sắc riêng cho sản phẩm du lịch, mà còn kích thích nhu cầu khám phá văn hoá, lịch sử, tâm linh… từ đó thu hút khách du lịch có ý thức và tìm kiếm trải nghiệm sâu sắc hơn. Sau khi được công nhận là Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, Tràng An đã phát triển mô hình du lịch gắn với cộng đồng; hàng ngàn người dân địa phương tham gia vào các hoạt động dịch vụ du lịch (láy đò, hướng dẫn, bán hàng, dịch vụ lưu trú, v.v.), tạo sinh kế ổn định tốt hơn và giúp cải thiện đời sống dân cư. Thêm vào đó, giá trị khảo cổ, địa chất, cảnh quan thiên nhiên của Tràng An mở ra “hướng phát triển du lịch nghiên cứu - giáo dục”: du lịch kết hợp với khảo cổ, nghiên cứu môi trường, bảo tồn thiên nhiên - hướng tới đối tượng du khách quan tâm học thuật, môi trường, khoa học. Một khảo sát gần đây ước tính tổng giá trị kinh tế (economic value) của Quần thể Tràng An, bao gồm các nhóm giá trị: cảnh quan karst, đa dạng sinh học, khảo cổ, di tích tôn giáo, văn hóa đạt mức rất cao, từ đó khẳng định tiềm năng của di tích như một “vốn văn hoá - thiên nhiên” đáng được bảo tồn và khai thác bền vững. Tuy nhiên, đặc điểm “nhạy cảm” của hệ karst, bao gồm địa hình, môi trường, đa dạng sinh học, giá trị địa chất, đồng nghĩa với việc việc phát triển du lịch cần được quản lý chặt chẽ: kiểm soát tải lượng khách, quy hoạch không gian du lịch, đảm bảo không làm tổn hại cảnh quan, hệ sinh thái và di tích. Như ghi nhận trong định hướng phát triển bền vững của tỉnh, cần có chiến lược kết hợp bảo tồn di sản với lợi ích cộng đồng, bảo vệ môi trường và phát triển du lịch theo chuẩn mực bền vững. Như vậy, hệ thống di tích tại Tràng An đóng vai trò kép: vừa là nền tảng văn hóa - lịch sử, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội thông qua du lịch; đồng thời đặt ra yêu cầu thiết yếu về bảo tồn, quản lý môi trường và sự tham gia của cộng đồng để đảm bảo du lịch phát triển hài hòa, bền vững, không làm mất đi bản sắc, giá trị di sản vốn có.

4. Một số giải pháp bảo tồn, phát triển bền vững tại Quần thể danh thắng Tràng An

- Thứ nhất, xây dựng và thực hiện nghiêm ngặt các quy hoạch quản lý di sản. Mọi dự án xây dựng, sửa chữa, tu bổ hay phát triển du lịch đều phải tiến hành đánh giá tác động môi trường (SEA) và đánh giá ảnh hưởng đến di sản (HIA), nhằm đảm bảo rằng mọi hoạt động tuân thủ các tiêu chí bảo tồn.

- Thứ hai, xác định rõ “sức chứa du khách” cho từng khu vực di sản. Đặc biệt đối với các vùng nhạy cảm như hang động, vùng lõi di tích, cảnh quan karst… để tránh quá tải, giữ gìn môi trường tự nhiên và bảo vệ cảnh quan.

- Thứ ba, phát triển mô hình quản lý di sản - du lịch theo hướng cộng đồng. Nhà nước xây dựng chính sách, doanh nghiệp đầu tư cơ sở vật chất, cộng đồng dân cư địa phương tham gia cung cấp dịch vụ, bảo vệ môi trường và di tích. Nhờ đó vừa tạo sinh kế cho người dân, vừa nâng cao trách nhiệm xã hội đối với di sản.

- Thứ tư, tăng cường công tác giáo dục, truyền thông nâng cao nhận thức cho du khách và cộng đồng địa phương về giá trị thiên nhiên, văn hóa, lịch sử của Tràng An. Đồng thời khuyến khích du lịch có ý thức, tôn trọng di sản và môi trường cảnh quan.

Quần thể danh thắng Tràng An là một di sản hỗn hợp, hội tụ đồng thời các giá trị thiên nhiên, địa chất, khảo cổ, lịch sử, văn hoá và tâm linh, phản ánh tiến trình cư trú, thích nghi và sáng tạo của con người qua hơn 30.000 năm. Di tích như Cố đô Hoa Lư, Hành cung Vũ Lâm, hệ thống đền - chùa, hang động, kết hợp với cảnh quan karst độc đáo, đã kiến tạo nên một “bảo tàng ngoài trời” có giá trị nổi bật toàn cầu.
 
Đưa quần thể Danh thắng Tràng An trở thành khu du lịch hấp dẫn của Việt Nam và quốc tế
Tràng An - Tam Cốc - Bích Động - Nguồn: Internet
 
Với việc được ghi danh Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, Quần thể danh thắng Tràng An không chỉ khẳng định vị thế trên bản đồ di sản quốc tế mà còn mở ra cơ hội phát triển du lịch - văn hóa - sinh kế địa phương, trở thành nguồn lực kinh tế và xã hội quan trọng. Đồng thời, để bảo đảm rằng các giá trị tự nhiên, văn hoá, lịch sử không bị xói mòn bởi áp lực du lịch, phát triển cần có chiến lược quản lý bền vững, đặt bảo tồn làm nền tảng: kiểm soát lượng khách, quy hoạch hợp lý, phát huy vai trò của cộng đồng, giám sát môi trường, và giáo dục di sản. Nếu được thực hiện nghiêm túc, Tràng An sẽ tiếp tục là mô hình mẫu mực về hài hòa giữa bảo tồn di sản và phát triển, bảo vệ “linh hồn” của thiên nhiên - lịch sử - văn hoá cho các thế hệ mai sau, đồng thời góp phần phát triển kinh tế - xã hội bền vững cho địa phương và quốc gia.

Theo doithoaiphattrien.vn