Đối mặt với cơn bão thuế quan, chuyên gia HSBC dự đoán gì về kinh tế Việt Nam năm 2026?
Theo chuyên gia từ HSBC Việt Nam, năm 2026 kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục đối mặt nhiều thách thức từ thuế quan, biến động tài chính và rủi ro toàn cầu, song vẫn mở ra không ít cơ hội tăng trưởng nhờ đầu tư công, dòng vốn FDI và chiến lược đa dạng hóa thương mại.
Trong bài nhận định mới nhất, ông Vũ Bình Minh, CFA, Giám đốc Kinh doanh vốn và tiền tệ, Khối Thị trường vốn và Dịch vụ Chứng khoán, HSBC Việt Nam, cho biết 2025 tiếp tục là một năm Việt Nam đạt được hầu hết những mục tiêu kinh tế vĩ mô đặt, từ tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát đến hàng loạt các chỉ tiêu khác. Để đạt được thành tựu đó Việt Nam đã phải vượt qua vô vàn thách thức với những cơn gió ngược đến từ mọi khía cạnh như thuế quan, thay đổi khí hậu, vấn đề nợ công toàn cầu…
Tua ngược lại thời điểm tháng Tư năm nay, khi Tổng thống Donald Trump công bố con số thuế quan đã gây sốc cả thế giới, không một ai có thể nghĩ tới về một triển vọng kinh tế tươi sáng cho cả năm 2025. Tuy nhiên, với quyết tâm cao từ toàn bộ cơ quan ban ngành, cùng những quyết sách mang tính quyết liệt, Việt Nam đang hướng tới một năm tăng trưởng kỷ lục.
Cơn bão thuế quan - điểm nhấn của bức tranh kinh tế vĩ mô 2025
Theo ông Minh, bức tranh kinh tế vĩ mô năm 2025 có thể chia làm hai giai đoạn chính, với câu chuyện thuế quan là bước ngoặt.
Trước đó, Việt Nam khởi đầu 2025 trong sự lạc quan với rất nhiều kỳ vọng sẽ nối tiếp thành công của năm 2024. Tuy nhiên, thuế quan đã trở thành chủ đề được bàn tán nhiều nhất trong quý I khi Việt Nam, quốc gia có thặng dư thương mại song phương lớn thứ ba với Mỹ, được xem là nước có rủi ro thuế quan cao nhất trong ASEAN. Cơn bão thuế quan đã gây chấn động thị trường, khi Việt Nam phải đối mặt với mức thuế 46%.
Sau nhiều vòng đàm phán, Việt Nam hiện đang ở nhóm các nước đang phát triển khác trong ASEAN với mức thuế 19 - 20%. Mặc dù kết quả của các vòng đàm phán còn chưa ngã ngũ, tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam vẫn đã và đang cho thấy những con số ấn tượng, trong bối cảnh các nhà xuất khẩu đẩy mạnh vận chuyển hàng hoá trước khi thuế quan có hiệu lực và tác động của nó vẫn chưa hoàn toàn suy giảm ngay cả tới những tháng gần đây.
Tại thời điểm công bố mức thuế quan 46% áp dụng cho Việt Nam, đã có rất nhiều hoài nghi về việc liệu Việt Nam có đạt được những mục tiêu kinh tế đầy tham vọng mà Chính Phủ đặt ra từ đầu năm. Tuy nhiên, các dữ liệu kinh tế vĩ mô đã cho thấy đà tăng trưởng GDP đầy ấn tượng trong quý II và quý III năm nay, với quý sau cao hơn quý trước. Bất chấp môi trường thương mại có nhiều thay đổi khó lường, chỉ số sản xuất công nghiệp quý ba (IIP) vẫn tăng 10% so với cùng kỳ năm trước.
Không những thế, tăng trưởng còn diễn ra ở diện rộng. Ngành dịch vụ ghi nhận hiệu quả hoạt động mạnh mẽ, nhờ sự tăng trưởng tốt trong các dịch vụ thương mại cũng như các ngành liên quan đến du lịch. Doanh số bán lẻ cũng cho thấy những cải thiện đáng kể với mức tăng 12% so với cùng kỳ năm ngoái trong quý III. Trong khi đó, các ngành liên quan đến du lịch, bao gồm vận tải và lưu trú, cũng đang chứng kiến sự bùng nổ liên tục khi lượng khách du lịch quay trở lại tương đương 120% so với mức năm 2019, dẫn đầu trong nhóm các quốc gia ASEAN.
Quay lại với bức tranh thương mại, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa tiếp tục bùng nổ khi đều đạt mức tăng trưởng gần 20% so với cùng kỳ năm trước. Thêm vào đó, thặng dư thương mại mà Việt Nam duy trì được, đã tăng hơn gấp đôi - lên 3 tỷ USD trong quý III, so với nửa đầu năm 2025, đưa cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu lên 20,53 tỷ USD tính chung 11 tháng đầu năm.
Tháng 11 tiếp tục chứng kiến tăng trưởng thương mại mạnh mẽ, mặc dù với tốc độ chậm hơn, phản ánh tác động giảm dần của việc đẩy nhanh hơn hoạt động thương mại trước hiệu lực của thuế quan. Trong tháng 11, tăng trưởng xuất khẩu và nhập khẩu đã giảm xuống còn 15,1% và 16% so với cùng kỳ năm trước, từ mức đỉnh. Có thể nói, sự giảm tốc trong đà tăng trưởng thương mại diễn ra trên diện rộng trong hai tháng gần nhất. Tuy nhiên điểm sáng là xuất khẩu điện tử vẫn duy trì được đà tăng trưởng mạnh mẽ.
Bên cạnh đó, bức tranh vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam (FDI) cũng rất tươi sáng. Mặc dù số vốn đăng ký mới giảm khoảng 8% so với cùng kỳ năm ngoái, nhưng vốn đăng ký điều chỉnh và vốn đăng ký góp vốn, mua cổ phần tăng lần lượt 17% và 50,7%, đưa tổng vốn FDI vào Việt Nam đạt 33,69 tỷ USD - mức cao nhất trong vòng 5 năm trở lại đây. Tương tự, vốn FDI thực hiện tại Việt Nam 11 tháng năm 2025 cũng đạt mức cao nhất của mười một tháng trong 5 năm qua với mức ước đạt 23,6 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước.
“Điều thú vị là cơ cấu FDI cho thấy một bức tranh về sự thay đổi cơ cấu nhà đầu tư, khi FDI từ Trung Quốc và Mỹ tăng đáng kể góp phần bù đắp cho sự sụt giảm từ các nhóm quốc gia khác”, ông Minh chỉ ra.
Tuy nhiên, bức tranh toàn cảnh không chỉ có riêng màu hồng. Thị trường tài chính - tiền tệ năm 2025 đã trải qua mười hai tháng đầy biến động, với rất nhiều "cơn gió ngược".
Mặt bằng lãi suất liên ngân hàng đã được duy trì ổn định trong phần lớn thời gian của nửa đầu năm nay nhờ vào Ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều hành chính sách tiền tệ theo hướng linh hoạt, ổn định nhằm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng và kích thích kinh tế trong bối cảnh Việt Nam chịu nhiều rủi ro về thuế quan. Tuy nhiên, gần tới những tháng cuối năm, mặt bằng lãi suất VNĐ đã chứng kiến áp lực tăng cao và nhanh, tiệm cận mức cao nhất trong vòng 3 năm trở lại đây. Bên cạnh đó, lạm phát cũng là một vấn đề đáng chú ý và cặp tỷ giá USD-VND cũng trải qua một năm 2025 đầy biến động.
Điểm tựa 2026
Theo chuyên gia, mặc dù các diễn biến của năm 2026 là rất khó dự đoán tại thời điểm này, nhưng các chỉ số như PMI cũng góp phần hé lộ một số triển vọng đáng khích lệ. “Chỉ số PMI tổng thể vẫn duy trì ở mức mở rộng 53,8 trong tháng 11. Đặc biệt, đơn đặt hàng xuất khẩu mới đã tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn trong tháng thứ hai liên tiếp”, ông Minh phân tích.
Bên cạnh đó, thời gian qua, Việt Nam đã tập trung đẩy mạnh đầu tư công, đặc biệt vào cơ sở hạ tầng trọng điểm, chi tiêu công cho cơ sở hạ tầng chiếm khoảng 6 - 7% GDP, cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực.
Ông Minh cho rằng đây đã và đang là động lực quan trọng hỗ trợ đà tăng trưởng kinh tế: "Khi những bất ổn bên ngoài gia tăng với rủi ro thương mại toàn cầu luôn hiện diện, việc tiếp tục tập trung đẩy mạnh đầu tư công sẽ là một trụ cột quan trọng đẩy mạnh tăng trưởng. Điều này đặc biệt ý nghĩa trong bối cảnh dư địa cho chính sách tiền tệ hạn chế và dư địa về chính sách tài khoá còn tương đối rộng mở do tỷ lệ nợ công trên GDP của Việt Nam là thấp nhất trong số các nước ASEAN".
Về triển vọng thương mại, đa dạng hóa thương mại đã trở thành một chiến lược quan trọng. Mặc dù Mỹ vẫn duy trì là điểm đến xuất khẩu hàng đầu, Việt Nam đang đẩy nhanh nỗ lực theo đuổi các cơ hội thương mại dài hạn. Năm 2024, thương mại của Việt Nam với Khối Liên Minh Châu Âu (EU) tăng 36% so với năm 2019, trở thành đối tác thương mại quan trọng nhất trong ASEAN.
Ngoài ra, Việt Nam đã và đang ký một loạt các hiệp định thương mại, cũng như nâng cấp quan hệ với các quốc gia, cho thấy tiềm năng của việc đa dạng hoá thương mại là rất lớn.
Về thị trường tài chính, chuyên ra chỉ rõ, mặc dù Việt Nam đã có một năm tương đối thành công, trong một số giai đoạn, rủi ro vẫn có thể đến từ biến số bên ngoài khiến cân đối cung cầu ngoại tệ trong nước chịu sức ép tạm thời.
Chính sách điều hành tiền tệ chủ động, linh hoạt của NHNN sẽ tiếp tục tạo điều kiện cho thị trường vận động trong biên độ ổn định. Đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, cần tiếp tục chủ động trong hoạt động phòng vệ rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất nhằm đảm bảo kết quả kinh doanh không bị ảnh hưởng.
“2026 sẽ tiếp tục là một năm Việt Nam đứng trước nhiều thách thức, nhưng cũng không thiếu những cơ hội. Việc tìm được điểm cân bằng sẽ giúp đưa quốc gia bước vào một kỷ nguyên mới vững mạnh hơn”, chuyên gia từ HSBC Việt Nam kết luận.